Sự vận hành và những thách thức của nền kinh tế Xô Viết 

  • Phiên bản pdf có thể được tải xuống tại đây
  • Phiên bản epub có thể được tải xuống tại đây
Lời tựa cho phần dịch tiếng Việt

Chủ nghĩa Marx, từ khi ra đời, đã luôn đấu tranh cho một nền kinh tế kế hoạch hóa.

Tuy nhiên, ở một số quốc gia mà các Đảng ‘Cộng sản’ quan liêu hiện nay đang nắm quyền lực, chúng ta thật khó có thể nhận ra được hình bóng nền kinh tế kế hoạch hóa. Những nước này đã từng áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa quan liêu theo kiểu Stalinist mà (tất nhiên) đã sụp đổ, và thay vào đó là mô hình kinh tế mà họ tự gọi là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Để ca tụng cho ‘sáng kiến vĩ đại’ ấy, những Đảng này không ngừng và cũng không ngần ngại xuyên tạc, cắt xén những lý thuyết về kinh tế tập trung để tôn sùng thứ mà Marx vẫn luôn phê phán là “sự hỗn loạn trong sản xuất”. Trong hầu hết những lời tuyên truyền về chính sách kinh tế, họ liên tục sử dụng cụm từ “không tôn trọng quy luật khách quan” để lý giải cho sự sụp đổ của mô hình kinh tế kế hoạch hóa trước đó được áp dụng. Thế nhưng, ‘quy luật khách quan’ ấy là gì? Liệu có phải theo ý họ, ‘quy luật khách quan’ đó có nghĩa là “chúng ta đã sai lầm khi đã chưa áp dụng nền kinh tế tư bản và trao quyền lực cho lũ tài phiệt cũng như bọn ngân hàng sớm hơn” hay không? Họ từ chối trả lời câu hỏi ấy một cách tử tế. Có thể những tổ chức ‘cộng sản’ này thừa biết câu trả lời, nhưng cũng biết rằng câu trả lời đó sẽ phủ nhận “vai trò lãnh đạo” của họ - thứ mà thực chất mục đích đặt ra chỉ nhằm lừa gạt giai cấp công nhân trong nước.

Trong bài viết này, Adam Booth đã phân tích sự vận hành của nền kinh tế Xô-viết, và cả sự sụp đổ của nó. Bằng góc nhìn và phương pháp Marxist thực thụ, chúng tôi mong rằng nội dung của bài viết sẽ cung cấp câu trả lời cho các ‘quy luật khách quan’ mà các Đảng ‘cộng sản’ quan liêu từ chối trả lời.

Việc dịch bài viết này sang nhiều thứ tiếng khác nhau tiếp cận đến giai cấp công nhân ở các nước ‘cộng sản’ quan liêu có mục đích cung cấp những vũ khí tri thức; trước tiên, nhằm vạch trần bộ mặt phản động, phản cách mạng của một số đảng ‘cộng sản’ cầm quyền; sau cùng và quan trọng hơn cả là để bảo vệ sự trong sáng của nền kinh tế kế hoạch hóa theo chủ nghĩa Marx cũng như tính khoa học, chính xác và tất yếu của nó.

Sự vận hành và những thách thức của nền kinh tế Sô Viết

Marx đã giải thích rằng mọi hệ thống xã hội đều tuân theo những quy luật của riêng chúng: dựa trên những sự vận động khách quan, các lực lượng khác nhau và những tác động chi phối sự vận động phát triển nội tại của nó. Trong bài viết này, Adam Booth xem xét đánh giá giai đoạn những thập kỷ đầu của Liên bang Xô-viết. Mục đích của việc này là nhằm cung cấp những hiểu biết vững chắc về các quy luật kinh tế chi phối nhà nước công nhân non yếu, và hơn nữa là trang bị cho thế hệ trẻ những bài học cần thiết để tiến hành cuộc đấu tranh thành công vì chủ nghĩa cộng sản.

"Những kết quả to lớn trong công nghiệp, sự mở đầu đầy hứa hẹn của một nền nông nghiệp đang vươn lên, sự lớn lên kỳ diệu của các thành phố công nghiệp truyền thống, sự xuất hiện những thành phố mới, sự tăng trưởng nhanh chóng của giai cấp công nhân theo cấp số nhân, sự nâng cao trình độ văn hóa và nhu cầu, đó là những kết quả không chối cãi được của cách mạng Tháng mười, cuộc cách mạng mà các nhà tiên tri của thế giới cũ chỉ muốn coi là nấm mồ của nền văn minh. Cũng không cần phải tranh cãi với các nhà kinh tế học tư sản: chủ nghĩa xã hội đã chứng minh quyền thắng của nó, không phải trong những trang của Tư bản luận, mà trên một khu vực kinh tế rộng bằng một phần sáu địa cầu; không bằng ngôn ngữ của biện chứng pháp mà bằng ngôn ngữ của sắt, xi măng và điện. "[1] – Leon Trotsky, Cuộc cách mạng bị phản bội.

Cách mạng Tháng Mười Nga là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của những người Bolsheviks, giai cấp công nhân đã nắm lấy quyền lực, giơ cao khẩu hiệu của cách mạng xã hội chủ nghĩa quốc tế, và thắp lên ngọn đèn hy vọng cho quần chúng bị bóc lột và áp bức trên toàn thế giới.

Cách mạng đã thành công ngay cả trong những điều kiện khắc nghiệt và bất lợi nhất của một nước lạc hậu về mặt kinh tế, phải chịu sự tàn phá bởi nhiều năm chiến tranh với vô số những biến động, cùng với đó là sự bao vây của chủ nghĩa đế quốc. Không chỉ có thế, những người Bolshevik đã đạt được thắng lợi chưa từng có tiền lệ trong lịch sử khi chỉ có thể dựa vào kinh nghiệm từ Công xã Paris vốn chỉ tồn tại được trong vài tháng ngắn ngủi và đã bị đàn áp trong bể máu.

Mặc dù đã đạt được những tiến bộ to lớn trong lĩnh vực kinh tế, Liên Xô chưa bao giờ thành công trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Dẫu cho là như vậy đi chăng nữa, những thập kỷ đầu tiên của Liên bang Xô-viết, từ năm 1917 đến 1937, đã cung cấp những bài học quý giá, mà chúng ta - những người cộng sản phải nghiên cứu và tiếp thu một cách toàn diện.

Bằng cách xem xét những ưu nhược điểm của nền kinh tế Xô-viết trong thời kỳ này thông qua các cuộc tranh luận lý thuyết nổ ra giữa những người Bolshevik về các vấn đề kinh tế, chúng ta có cơ hội để hiểu rõ hơn về các quy luật kinh tế sẽ tồn tại, vận động trong quá trình chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản. Điều này sẽ góp phần làm sáng tỏ con đường xây dựng nên một xã hội cộng sản.

Giai đoạn quá độ

Ngày 7 tháng 11 năm 1917 (tức 25 tháng 10 theo lịch Nga cũ), tại Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ hai, Lênin đã bước lên bục phát biểu và dõng dạc tuyên bố rằng: “Từ giờ phút này, chúng ta sẽ tiến hành xây dựng trật tự xã hội chủ nghĩa!”

Dù vậy, cả Lênin và những người Bolsheviks đều hiểu rõ một điều rằng, trật tự cộng sản không thể được hình thành một sớm một chiều. Ngay năm đó, trong tác phẩm kinh điển Nhà nước và cách mạng, Lênin đã dẫn nguyên văn lời của Marx:

“Xã hội tư bản chủ nghĩa tiến đến xã hội cộng sản chủ nghĩa phải trải qua thời kỳ chuyển đổi mang tính cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Tương ứng với giai đoạn này là thời kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể là gì khác ngoài chế độ chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.”

Như Marx và Engels đã giải thích trong Tuyên ngôn Cộng sản: “Bước đầu tiên trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân là đưa giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị”.

Sau khi giành được quyền lực, giai cấp công nhân sẽ lan rộng sự thống trị của giai cấp cách mạng trên toàn thế giới và “sử dụng quyền lực chính trị của mình để từng bước giành lấy toàn bộ tư bản từ giai cấp tư sản, tập trung mọi công cụ sản xuất vào tay nhà nước… và mở rộng lực lượng sản xuất nhanh nhất có thể”.[4]

Trên cơ sở đó, xã hội sẽ tiến đến ‘chủ nghĩa xã hội’- hay theo cách gọi của Marx là “giai đoạn đầu tiên của xã hội cộng sản” [5]. Chỉ có trong giai đoạn này, những tàn tích cuối cùng như nhà nước, tiền tệ và bất bình đẳng của xã hội giai cấp mới bắt đầu tiêu biến.

Năm 1918, bản chất quá độ rõ ràng của thể chế Bolshevik đã được Lênin thừa nhận:

“Thuật ngữ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết cho thấy quyết tâm của chính quyền Xô-viết trong công cuộc quá độ sang chủ nghĩa xã hội, chứ không được công nhận là hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa.”[6]

Tuy nhiên, chính Lênin và những người Bolshevik đều hiểu rằng, những điều kiện của nước Nga lúc đó vẫn còn đang yếu kém và còn rất xa nữa mới có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ chưa nói đến chủ nghĩa cộng sản.

Phát triển không đồng đều và phối hợp

Tính đến năm 1917, các điều kiện cho chủ nghĩa xã hội chắc chắn đã tồn tại trên phạm vi toàn cầu. Trong những thập niên trước Thế chiến I, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã ngày càng được xã hội hóa và kế hoạch hóa cao độ. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là của cải xã hội được tạo ra vẫn tiếp tục bị chiếm đoạt riêng về tay giới chủ và các ngân hàng.

Như đã giải thích trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc: Giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, các liên minh độc quyền, cấu kết với bọn tư bản tài chính và nhà nước, tạo nên thứ mà Lênin gọi là “chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước”, đã chi phối toàn bộ nền kinh tế.

Những biến chuyển kinh tế của Đế quốc Đức đã minh họa rõ nét điều này. Các trust (công ty cổ phần lớn/các đại tập đoàn) công nghiệp và mạng lưới vận tải được đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Thị trường 'tự do' đã được thay thế bằng sản xuất kế hoạch hóa. Tai quái ở chỗ, nền sản xuất này không phải nhằm vào việc phục vụ lợi ích quốc gia mà thực chất là chỉ có lợi cho nhà tư bản.

Dẫu vậy, cách mạng vô sản lại chưa thể thành công ở các nước tư bản tiên tiến như là Anh và Đức. Mà trên thực tế, giai cấp công nhân, lần đầu tiên, đã nắm được quyền lực ở nước Nga, một nước nửa phong kiến - nơi mà các nhiệm vụ của cách mạng tư sản (điển hình như cải cách ruộng đất) còn chưa hoàn thành.

Lênin chú thích rằng: “Lịch sử đã làm nảy sinh ra hai nửa không liên quan đến nhau của chủ nghĩa xã hội cùng tồn tại song song”. “Đức và Nga đã trở thành đại diện nổi bật nhất của một bên là sự hiện thực hóa vật chất của các điều kiện kinh tế, sản xuất và kinh tế-xã hội cho chủ nghĩa xã hội, và bên còn lại là các điều kiện chính trị”.

Điều này chính là sự biểu hiện rõ nét của ‘quy luật phát triển không đồng đều và phối hợp’ được Trotsky đưa ra.

Do điều kiện lạc hậu của nước Nga, Sa hoàng buộc phải nhập khẩu tư bản, máy móc và kỹ thuật từ nước ngoài. Kết quả là, đến năm 1914, đất nước đặc trưng bởi những “ốc đảo” công nghiệp hiện đại với tầng lớp lao động phát triển được bao quanh bởi những “sa mạc" lạc hậu về kinh tế, văn hóa và nông nghiệp.

Mâu thuẫn này là nguồn cơn cho sự ra đời, và cuối cùng, cũng chính là thứ đã bóp chết Cách mạng Nga.

Mắt xích yếu nhất trong dây chuyền tư bản chủ nghĩa đã bị phá vỡ. “Nước Nga đi vào con đường cách mạng vô sản, không phải vì nền kinh tế của nó đã chín muồi nhất để biến hóa thành xã hội chủ nghĩa mà bởi vì nó không thể phát triển được nữa trên những nền móng tư bản chủ nghĩa”.[9]

Nga là nước yếu nhất trong số các cường quốc tham gia Thế chiến I do không có lực lượng vũ trang hiện đại cũng như nền công nghiệp phát triển như các đối thủ của mình. Bên cạnh đó, với năng lực công nghiệp hạn chế, Nga còn phải điều phối nguồn lực sang sản xuất vũ khí. Điều này đã càng làm trầm trọng thêm tình trạng khan hiếm các nhu yếu phẩm cơ bản, và thúc đẩy sự tan rã của cơ sở hạ tầng.

Thêm vào đó, Chế độ Sa hoàng phụ thuộc nặng nề vào việc in tiền và phát hành trái phiếu để tài trợ cho chi tiêu quân sự. Vì vậy, giá cả đã tăng vọt lên gấp ba lần chỉ sau một vài năm. [10]

Sa hoàng khi đó đã áp thuế ngũ cốc đối với nông dân nhằm cố gắng giảm bớt nạn đói hoành hành trong bộ phận công nhân và binh lính. Điều này đã làm dấy lên sự phẫn nộ ở vùng nông thôn.

Các vấn đề suy thoái kinh tế, lạm phát tràn lan, thiếu hụt hàng hóa, cưỡng đoạt lương thực của nông dân đều là tàn dư của thời Sa hoàng. Thế nhưng, các nhà sử học tư sản lại cáo buộc tất thảy những thứ khủng khiếp ấy là do những người Bolshevik gây ra từ thời điểm trước cả khi mà chính sách “Cộng sản thời chiến” ra đời.

Trong những điều kiện tồi tệ ấy, các cuộc biểu tình nổ ra trong quần chúng St. Petersburg đã dẫn đến sự sụp đổ của Sa hoàng vào tháng 2 năm 1917, tiếp theo đó là Chính phủ lâm thời, và cuối cùng đã mở đường cho Cách mạng Tháng Mười thắng lợi.

Tuy nhiên, cũng chính những điều kiện mở đường cho cách mạng xã hội chủ nghĩa đã khiến cho giấc mơ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi Đế quốc Nga cũ không thể trở thành hiện thực.

Ngay từ giai đoạn sơ khai nhất, Lênin và những người Bolsheviks luôn giữ quan điểm: cách mạng muốn thành công, suy cho cùng, phải thông qua sự lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Nếu không có điều kiện này, Cộng hòa Xô-viết mới ra đời sẽ không thể tồn tại, chứ đừng nói đến việc sẽ tự mình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sự thật này đã được Lênin thừa nhận một cách rõ ràng vào năm 1918, khi tuyên bố: “Dù có thế nào đi chăng nữa, trong mọi hoàn cảnh mà chúng ta có thể tưởng tượng ra được, nếu cách mạng Đức không xảy ra, chúng ta sẽ tiêu vong." [11]

Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa tự trị

Nhiệm vụ cấp bách mà những người Bolshevik đã tiến hành khi ấy không phải, và cũng không thể được coi là kế hoạch xây dựng một xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh. Thay vào đó, những gì họ làm chỉ đơn thuần là việc ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn của cách mạng, và tiếp tục lan rộng cách mạng ra thế giới.

Những người Bolshevik đã lãnh đạo công nhân và nông dân Nga lên nắm quyền lực. Tuy nhiên, trong những tháng liên tiếp sau Cách mạng Tháng 10, thay vì bảo đảm được vai trò lãnh đạo, chính người Bolshevik đã bị cuốn theo phong trào, và buộc phải có động thái phản ứng trước các sự kiện xảy ra.

Việc giành chính quyền diễn ra trong bối cảnh của một cuộc cách mạng rộng lớn, đã tạo điều kiện để các phong trào ở cả khu vực nông thôn và thành thị trở nên sôi sục. Công nhân đã thành lập các ủy ban đình công trong các nhà máy. Cùng với đó, bần cố nông đã buộc những địa chủ phải rời khỏi điền trang và bắt đầu phân chia lại đất đai cho nhau.

Lênin và những người Bolshevik đã cố gắng điều hướng làn sóng này, nhằm vào mục đích cuối cùng là xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, những cân nhắc về mặt chính trị đã liên tục lấn át các tư tưởng kinh tế. Bên cạnh đó, bộ máy của nhà nước công nhân mới cũng không có đủ sức mạnh để biến chính sách trở thành hành động.

Điển hình là trong vấn đề đất đai, một ngày sau cách mạng Tháng Mười, Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ hai đã thông qua một sắc lệnh chính thức bãi bỏ mọi quyền sở hữu đất đai tư nhân. Tuy nhiên, thay vì sử dụng đất đai được tịch thu để thành lập các nông trường tập thể quy mô lớn và tổ chức nông nghiệp theo đường lối xã hội chủ nghĩa, những người Bolshevik đã bị buộc phải áp dụng chương trình của 'Đảng Xã hội chủ nghĩa - cách mạng', theo đó đã trao đất cho nông dân dựa trên cơ sở cá nhân.

Bằng cách này, đảng Bolshevik đã giành được sự ủng hộ của đại bộ phận nông dân trong quần chúng. Tuy nhiên, một khi tầng lớp nông dân tiểu tư sản này nắm được quyền lực, những mâu thuẫn mới sớm muộn cũng sẽ nảy sinh.

Điều tương tự cũng được áp dụng trong trường hợp đối với các công nhân và các ủy ban nhà máy khi họ nắm được quyền kiểm soát và quản lý nhà máy. Những người Bolshevik khi đó đã xem xét coi đó là bước đầu của kế hoạch xây dựng xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp. Bên cạnh đó, sau khi xét đến tình hình lạc hậu của đất nước, Lênin đã mường tượng ra một giai đoạn mà công nhân sẽ nắm quyền kiểm soát trong một thời gian dài. Và trong khoảng thời gian đó, giai cấp công nhân sẽ học được cách điều hành nền công nghiệp, thông qua nghiên cứu phương pháp của các chuyên gia và chủ tư bản cũ.

Ấy thế mà, những bước đầu tiên trên con đường công nhân nắm quyền kiểm soát lại mang đầy tính vô trị và được áp dụng cho các nhà máy cục bộ một cách vô kế hoạch. Một bộ phận lớn công nhân hiểu việc kiểm soát theo góc nhìn của những người theo chủ nghĩa công đoàn: không phải theo hướng công nhân sử dụng quyền lực của mình đối với toàn bộ nền sản xuất; mà được hiểu theo nghĩa: các hợp tác xã của công nhân điều hành nơi làm việc của riêng mình, độc lập với bất kỳ ai hoặc bất kỳ điều gì khác.

Khi công nhân chiếm được các nhà máy và buộc các nhà tư bản phải tháo chạy, nhiều doanh nghiệp đã được chuyển hóa đặt dưới quyền sở hữu của nhà nước. Tuy nhiên, những công nhân trong các doanh nghiệp này lại thường cho rằng chủ sở hữu hiện tại lại chính là họ.

Trong Lịch sử nước Nga Xô Viết của E. H. Carr thậm chí còn chỉ ra rằng có những trường hợp “công nhân, sau khi tiếp quản một nhà máy, chỉ đơn giản là chiếm đoạt tiền quỹ của nó, hoặc bán cổ phiếu và máy móc để hưởng lợi cho riêng mình”.[12]

Sự khác biệt giữa Chủ nghĩa Marx và ‘Chủ nghĩa tự trị’ là khi những người công nhân tập hợp và hành động như một giai cấp chống lại chủ nghĩa tư bản, chứ không phải là các nhóm nhỏ công nhân đấu tranh với các chủ tư bản một cách riêng lẻ; kế hoạch hóa tập trung và phối hợp thông qua nhà nước công nhân sẽ được tiến hành, chứ không phải là sự kiểm soát độc lập của các hội đồng và hợp tác xã công nhân phân tán, biệt lập.

Carr kết luận: “Quan niệm cho rằng các vấn đề sản xuất và quan hệ giai cấp trong xã hội có thể được giải quyết bằng hành động trực tiếp và tự phát của công nhân tại từng nhà máy riêng lẻ không phải là của chủ nghĩa xã hội, mà là chủ nghĩa công đoàn”. Ông nói thêm:

“Chủ nghĩa xã hội không tìm cách thay thế một nhà tư bản bằng một ủy ban nhà máy cũng vô trách nhiệm tương tự, cùng lúc tự tuyên bố rằng nó có thẩm quyền chính trị độc lập. Điều đó chỉ có thể làm dai dẳng thêm ‘tình trạng hỗn loạn trong sản xuất’ mà Marx coi là vết nhơ đáng lên án của chủ nghĩa tư bản.”[13]

Quốc hữu hóa công nghiệp

Những người Bolshevik đã cố gắng xoa dịu tình hình một cách có ý thức. Vào tháng 12 năm 1917, chính quyền Liên Xô đã thành lập Hội đồng Kinh tế Quốc gia Tối cao – viết tắt là VSNKh, hay còn gọi là Vesenkha.

Vesenkha chịu trách nhiệm “tổ chức hoạt động kinh tế của quốc gia và các nguồn tài chính của chính phủ”.[14] Nhiệm vụ đầu tiên của cơ quan này là nhằm kiểm soát glavki: các trust của các doanh nghiệp lớn trong từng ngành công nghiệp, chẳng hạn như luyện kim và dệt may, vốn đã xuất hiện từ thời Sa hoàng để lập kế hoạch sản xuất thời chiến.

Tài chính là ngành công nghiệp đầu tiên được quốc hữu hóa. Khi phân tích Công xã Paris, Marx đã chỉ ra rằng sự thất bại của những người Công xã (Communard) trong việc chiếm Ngân hàng Pháp là một sai lầm tai hại. Lênin và những người Bolsheviks đã thấm nhuần những lời khuyên khôn ngoan này.

Vào tháng 12 năm 1917, để đáp trả hành động phá hoại của các chủ ngân hàng, chính quyền Liên Xô đã triển khai quân đội và ra sắc lệnh sáp nhập các ngân hàng thành một Ngân hàng Quốc gia đơn nhất, có quyền độc quyền về tiền tệ và tín dụng.

Chính phủ cũng xóa bỏ mọi khoản nợ công của chế độ tiền nhiệm – đặc biệt là những khoản nợ với các nhà tài chính nước ngoài. Điều này vấp phải sự phản đối dữ dội từ bọn đế quốc, những kẻ đã ngay lập tức cắt đứt các khoản tín dụng còn lại, đã làm tăng thêm tầm quan trọng của việc nhà nước kiểm soát hệ thống tài chính.

Ở những nơi khác, ban đầu, quốc hữu hóa chủ yếu diễn ra một cách tự phát thông qua những hành động trực tiếp của công nhân như thông qua: phản ứng tự vệ trước sự phá hoại của giới chủ, hoặc xác nhận việc hồi tố. Trong chín tháng đầu tiên, hơn hai phần ba các trường hợp quốc hữu hóa được thực hiện là do sự đề xướng của các Xô-viết địa phương và ủy ban công nhân, chứ không phải theo chỉ thị từ cấp trên xuống.[15]

Từ khoảng tháng 5 đến tháng 6 năm 1918, cùng với sự tăng cường phá hoại của chủ nghĩa tư bản, cộng với việc chủ nghĩa đế quốc gia tăng can thiệp, những người Bolshevik buộc phải thay đổi đường lối và quốc hữu hóa toàn bộ các ngành công nghiệp. Ngay cả có như thế đi chăng nữa, việc trưng thu cũng được tiến hành tùy tiện chứ không phải thông qua một kế hoạch đồng bộ nào.

Giai cấp công nhân, không còn nghi ngờ gì nữa, là động lực của cuộc cách mạng. Tuy nhiên, động lực ấy cần được điều tiết, định hướng theo cách có tổ chức và có kế hoạch.

Dẫu vậy, Lênin giải thích rằng nhà nước Xô-viết non trẻ không có đủ khả năng để có thể kế hoạch hóa sản xuất chính xác. Trong nhiều trường hợp, khi nhà nước cạn kiệt các nguồn lực, các doanh nghiệp quốc hữu hóa nhanh chóng được cho những chủ sở hữu cũ thuê lại, và các giám đốc vẫn được giữ nguyên vị trí.

Trong khi đó, một hệ thống kiểm soát và quản lý thuộc về giai cấp công nhân thực chất phải bao gồm các ủy ban nhà máy, công đoàn và xô viết địa phương phối hợp cùng nhau hoạt động. Và để có thể thành công, như Lênin đã vạch ra, cần có một số điều kiện vật chất nhất định - những điều kiện mà Cộng hòa Xô-viết chưa thể có được.

Điều kiện cần thiết ấy chính là một tầng lớp lao động có đủ thời gian và văn hóa: khi mà mức năng suất cao đến mức công nhân có đủ thời gian tự do ngoài giờ để tham gia vào việc điều hành sản xuất, bên cạnh đó là trình độ học vấn và kỹ năng để thực hiện các nhiệm vụ hành chính liên quan.

Nói tóm lại, ngay cả kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa cũng không thể thực hiện được một cách hợp lý nếu không có sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất.

Thay vì làm điều đó, Lênin đã kêu gọi chỉ quốc hữu hóa những đòn bẩy chính của nền kinh tế, với những người quản lý cũ vẫn được giữ nguyên vị trí và bị đặt dưới sự giám sát của giai cấp công nhân. Điều này đồng nghĩa với việc tập trung hóa tối đa và tổ chức công nghiệp sẽ dựa vào phạm vi quản lý của Vesenkha.

Chính thời điểm đó, xuất hiện phe đối lập "Cộng sản cánh tả" trong đảng Bolshevik, đã làm dấy lên những bất đồng về lập trường. Những người cực tả này dựa trên quan niệm cho rằng quyền kiểm soát của công nhân cần phải tự chủ hơn, đồng thời cũng kêu gọi một "chính sách xã hội hóa quyết liệt".

Lênin đã bác bỏ họ - và cả những lời cáo buộc công khai rằng chính phủ đang theo đuổi "sự sai lầm của những người Bolshevik hữu khuynh".

Lênin khẳng định: "Chỉ có người mù mới không thấy rằng chúng ta đã quốc hữu hóa, tịch thu, đánh bại và hạ bệ nhiều (bọn chủ nghĩa tư bản) hơn chúng ta có thời gian để đếm". Tuy nhiên, ông nhấn mạnh, "chúng ta có thể tịch thu chỉ bằng 'sự quyết tâm', nhưng lại không có khả năng tính toán và phân phối hợp lý - thứ nền tảng bắt buộc phải có để xã hội hóa (sản xuất)."

Quốc hữu hóa những đòn bẩy quan trọng của nền kinh tế đi kèm với việc thiết lập độc quyền nhà nước đối với thương mại nước ngoài - được chính thức thực hiện vào tháng 4 năm 1918.

Đó là điều tối quan trọng để bảo vệ nền kinh tế Xô-viết mới ra đời khỏi áp lực của thị trường tư bản toàn cầu, cũng như ngăn chặn bọn thương nhân cơ hội có thể bòn rút của cải ra khỏi đất nước hoặc kiếm lời từ hàng nhập khẩu.

Nhìn về phía trước, bên cạnh việc quốc hữu hóa nền đại công nghiệp, việc kiểm soát tài chính và ngoại thương cũng sẽ đóng vai trò then chốt cho kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa. Trong ngắn hạn, những động thái này là thiết yếu để bảo vệ cách mạng.

Đó là những gì đã diễn ra ở Cộng hòa Xô-viết khi nội chiến bắt đầu nổ ra, thúc đẩy những người Bolshevik phải dập tắt những đám cháy lớn hơn nữa.

Cộng sản thời chiến

Chiến tranh thế giới và nội chiến liên tiếp đã gây ra sự gián đoạn hết sức sâu sắc.

Từ năm 1918 đến năm 1920, hàng triệu người tị nạn trong nước đã buộc phải rời bỏ nhà cửa khi quân đội đế quốc và Bạch Vệ quân lùng sục các thị trấn, làng mạc. Hàng triệu người khác chết vì đói và dịch bệnh.

Điều này lại còn xảy ra sau khi đất nước phải chịu đựng những tổn thất nặng nề về lãnh thổ do hiệp ước Brest-Litovsk và cả sự cướp bóc dã man của đế quốc Đức.

Mùa màng bị tàn phá nghiêm trọng, các tuyến giao thông đứt gãy, dân số thành thị giảm sút mạnh bởi những người lao động đói khát phải trở về làng để kiếm cái ăn.

Do các nhà máy không có công nhân, nguyên liệu thô và nhiên liệu; sản lượng công nghiệp tụt dốc nhanh chóng. Đến năm 1920, nền đại công nghiệp chỉ hoạt động ở mức 13 phần trăm so với trước chiến tranh. [18]

Mục tiêu duy nhất của chính quyền Bolshevik vào lúc này chỉ là làm sao để có thể tồn tại được. Do vậy, phải phát động thời kỳ "Cộng sản thời chiến": nỗ lực chuyển mọi nguồn lực sẵn có cho Hồng quân.

Điều này đồng nghĩa với việc gánh nặng lại phải dồn vào vai của công nhân và nông dân. Công nhân phải chống chọi với giá cả leo thang và tình trạng thiếu thốn ở thành thị, cùng với thời gian và điều kiện làm việc khắc nghiệt trong nhà máy. Còn nông dân thì phải chấp nhận bị trưng dựng ngũ cốc và gia súc bởi nhà nước.

Chính phủ đã cố gắng giải quyết khủng hoảng lương thực bằng cách tiến hành cuộc chiến nhắm vào bọn đầu cơ, thương nhân tư nhân, và kulak (phú nông) - những kẻ đang đầu cơ và tích trữ ngũ cốc. Nhưng những cuộc đột kích vào các làng mạc và cửa hiệu cũng chỉ có thể thu được một lượng lương thực rất hạn chế.

Chính quyền trung ương cũng kiếm tìm sự giúp đỡ từ phong trào hợp tác xã, với hy vọng có thể tập hợp và phân phối lương thực thông qua mạng lưới của họ. Thật không may, những hợp tác xã này tỏ ra không mấy hợp tác.

Do đó, đến năm 1919, những người Bolshevik đưa ra chính sách prodrazvyorstka: hạn ngạch trao đổi ngũ cốc bắt buộc, với mức giá do nhà nước ấn định. Trong một số trường hợp, nhà nước tịch thu thặng dư ngũ cốc. Còn một số trường hợp khác, dù không hoàn toàn giống, nhưng kết quả thì cũng tương tự như vậy, vì lượng tiền hoàn trả cho việc trao đổi ngũ cốc là rất ít và ngày càng vô giá trị do ảnh hưởng của lạm phát.

Hàng ngàn tình nguyện viên đã đăng ký tham gia để hỗ trợ chiến dịch trưng dụng. Các công đoàn, ủy ban nhà máy và xô-viết đã thành lập các 'lữ đoàn lương thực' được vũ trang, mục tiêu chính nhắm vào là các kulak.

Bên cạnh việc tìm ra các kho dự trữ lương thực bí mật và thu thập ngũ cốc, các lữ đoàn này cũng có nhiệm vụ kích động chính trị trong số những nông dân nghèo hơn, để vừa kêu gọi họ tham gia tìm kiếm lương thực và vừa đấu tranh lại các tầng lớp giàu có hơn ở nông thôn.

Mục tiêu của phe Bolshevik là gây chia rẽ giữa các kulak và phần còn lại của giai cấp nông dân. Nhưng thặng dư có thể thu được từ kulak là vẫn không đủ, dẫn đến việc phải mở rộng phạm vi của prodrazvyorstka. Trong khi đó, trớ trêu thay, nông nghèo lại có xu hướng 'đồng cảm' nhiều hơn với với 'những người bạn giàu có ở nông thôn' của họ hơn là với những công nhân ở thành thị.

Do không có đủ tiền cũng như hàng sản xuất để trao đổi ngũ cốc với nông dân, hoạt động trưng dụng đã gặp phải sự phản kháng và phá hoại, bao gồm cả việc giảm mức gieo trồng.

Công nhân trong các lữ đoàn lương thực phải đối diện với nguy cơ bị tay sai của bọn kulak thảm sát. Trong nhiều trường hợp, xác của những người đi trưng dụng đã được tìm thấy trong các nhà kho, bụng của họ bị rạch ra và nhồi đầy ngũ cốc vào bên trong. [19]

Chính phủ bị mắc kẹt trong vòng lặp thảm hoạ. Nếu không có một nền công nghiệp tương ứng, không thể cung cấp cho nông dân những hàng hóa mà những người này yêu cầu để trao đổi lương thực. Điều này dẫn đến công nhân phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lương thực ngày càng trầm trọng, sản lượng công nghiệp càng giảm sút, càng thiếu hàng hóa công nghiệp để trao đổi với nông nghiệp. Trong khi đó, quân đội vẫn cần phải được nuôi sống.

Những biện pháp cực đoan

Nội chiến đã đẩy nhanh quá trình quốc hữu hóa công nghiệp. Những nỗ lực trong quân sự đặt ra yêu cầu phải tập trung hóa nghiêm ngặt để chống lại tình trạng hỗn loạn đang bùng phát khắp nền kinh tế. Sản xuất cần phải được tập trung vào những nhà máy đắc lực nhất. Và nguyên vật liệu khan hiếm phải được phân bổ đến những nơi mà chúng có thể đem lại hiệu quả cao nhất.

Cho đến tháng 11 năm 1920, Vensekha chịu trách nhiệm giám sát khoảng 3,800-4,500 doanh nghiệp nhà nước [20] - chủ yếu là trong ngành công nghiệp lớn, nhưng cũng bao gồm một số ngành quy mô nhỏ hơn không thuộc vào nhóm chủ lực của nền kinh tế.

Số lượng quan chức Vensekha và nhân viên glavki đã tăng vọt, từ khoảng 300 người vào tháng 3 năm 1918, lên đến tổng cộng 6,000 người chỉ trong 6 tháng sau đó. [21] Nhiều người trong số họ đã từng phục vụ trong bộ máy nhà nước Sa hoàng, và điều này đã làm dấy lên sự phẫn nộ trong giới công nhân.

Ngay cả trong điều kiện bị bủa vây tứ phía, những người Bolshevik vẫn còn vật vã trong cuộc tranh luận về những câu hỏi: mối quan hệ giữa các nhà hoạch định trung ương và xô viết địa phương, giữa tập trung hóa và chủ nghĩa liên bang; vấn đề tin dùng các chuyên gia và nhà quản lý tư sản với mức lương thưởng cao hơn; và vai trò của công đoàn như là công cụ huy động nguồn lực lao động.

Đã có những lời chỉ trích giới cầm quyền về tất cả những vấn đề này, trong đó nổi bật nhất là từ nhóm 'Phe đối lập của công nhân'. Lênin và Trotsky là những người đầu tiên thừa nhận rằng những biện pháp cực đoan mà nội chiến đòi hỏi là không hề lý tưởng, nhưng, chúng lại là những biện pháp cần thiết.

Không thể giành chiến thắng trong nội chiến nếu không có sự tập trung hóa cao độ nhất. Một giai cấp công nhân thiếu kinh nghiệm và đã bị vắt kiệt sức lực không có khả năng vận hành nền công nghiệp quốc gia mà không có sự giúp sức từ các chuyên gia. Cần phải hiểu rằng, tồn tại, chứ không phải xã hội chủ nghĩa, mới là nhiệm vụ cấp bách nhất lúc bấy giờ.

Khi tình trạng thiếu thốn trở nên ngày càng trầm trọng, chính phủ đã nhanh chóng tăng cường kiểm soát phân phối. Các hợp tác xã và cửa hàng bán lẻ đã được quốc hữu hóa một cách hiệu quả. Giá của một loạt sản phẩm đã được neo cố định. Chế độ phân phối như đã áp dụng lần đầu tiên từ trước cách mạng được tái thiết lập. Trong đó, công nhân công nghiệp được ưu tiên còn những người đã từng là tư sản xếp ở hàng cuối cùng.

Nhưng những khẩu phần được phân phối là không đủ. Trong năm 1919-1920, chỉ có khoảng 20-25 phần trăm lượng thực phẩm tiêu thụ ở các thành thị đến từ các khẩu phần đã được phân phối. [22] Công nhân nhà máy thậm chí còn phải tự trồng rau củ trong những mảnh vườn sẵn có ở nơi làm việc. Nạn đói trầm trọng đến mức người ta không còn thấy chó, mèo và ngựa ở Petrograd. [23]

Các thị trường đã chính thức bị bãi bỏ. Tuy nhiên, các biện pháp cấm đoán của chính phủ lại trở nên bất lực. Quy luật cung-cầu vẫn còn tồn tại và tự len lỏi. Thị trường chợ đen mọc lên như nấm, với những 'kẻ đầu cơ' rao bán hàng hóa khan hiếm với giá cả đã bị thổi phòng lên đến tận mức trên trời.

Để tài trợ cho chi tiêu nhà nước, chính phủ liên tục phải in thêm tiền. Đồng rúp ngày càng mất giá. Tỷ lệ lạm phát lên đến 600% vào năm 1918, và đã cán mức 1,400% chỉ sau đó một năm.

Khi đồng tiền trở nên vô giá trị và chẳng còn có khả năng để có thể sử dụng được nữa, nền kinh tế bắt đầu trở nên chật vật. Tiền, khi đó, được thay thế bằng hệ thống thanh toán qua hiện vật. Các doanh nghiệp quốc hữu hóa trao đổi nguyên vật liệu dựa trên những con số từ sổ sách thống kê của Vensekha. Nhà nước cung cấp khẩu phần ăn và dịch vụ miễn phí, chẳng hạn như căng tin và phương tiện đi lại công cộng. Và thay vì trả lương, công nhân nhà máy được nhận một phần sản phẩm công nghiệp của họ, để trao đổi thông qua hình thức đổi hàng trên thị trường chợ đen.

Quy luật giá trị

Cộng sản Thời chiến, được áp dụng trong bối cảnh khẩn cấp và thiếu thốn, đã dẫn đến một nền kinh tế gần như hoàn toàn quốc hữu hóa và không sử dụng tiền tệ. Nhưng điều này chẳng giống chút gì với ý tưởng của chủ nghĩa Marx về chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Mâu thuẫn này là kết quả của của sự tàn phá và khủng hoảng, chứ không phải sự thiết kế và kế hoạch.

Có thêm nhiều người Bolsheviks cực tả lí tưởng hóa điều này một cách không cần thiết. Điều đã đến bất ngờ và vô tổ chức, là hệ quả của sự rối loạn và sụp đổ, lại được tô vẽ như một bước đi có chủ đích về phía chủ nghĩa xã hội.

Thực tế là, quy luật của chủ nghĩa tư bản tiếp tục vận hành - không chỉ từ phía ngoài, qua áp lực của thị trường thế giới, mà ngay cả bên trong nhà nước công nhân.

Marx đã chỉ ra rằng, đối với mọi hệ thống kinh tế, sẽ luôn có những động lực khách quan, tồn tại độc lập với mọi ý định, ý chí, sẽ điều tiết của cải của xã hội, lao động và tư liệu sản xuất.

Dưới chủ nghĩa tư bản, ông lí giải, của cải của xã hội có hình thái là hàng hóa: được sản xuất để trao đổi và phân phối thông qua thị trường.

Thông thường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị - được xác định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để tạo ra chúng. Marx gọi đây là quy luật giá trị.

Luật giá trị điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nó xác lập tỷ lệ mà hàng hóa được trao đổi. Nó quyết định giá trị của tiền – "hàng hóa của mọi hàng hóa". Và nó định hướng dòng chảy tư bản từ ngành này sang ngành khác, định hình sự phân công lao động toàn cầu.

Trong chủ nghĩa tư bản, mọi thành phần của nền kinh tế đều liên kết với nhau thông qua "bàn tay vô hình" của thị trường. Nhưng hệ thống này vận hành một cách mù quáng, ngoài tầm kiểm soát của cả các nhà tư bản lẫn người lao động.

Do đó, luật giá trị thể hiện bản thân trong chủ nghĩa tư bản qua sự hỗn loạn của các lực lượng thị trường và sự dao động của tín hiệu giá cả, nỗ lực đạt được "cân bằng" thông qua hỗn loạn và khủng hoảng.

Ngược lại, dưới chính sách Cộng sản thời chiến, toàn bộ giai cấp tư bản đã bị tước quyền. Các quan hệ thị trường bị thay thế, với hàng hóa và dịch vụ cơ bản chính thức không còn được phân phối thông qua mua bán và trao đổi, mà thông qua nhà nước.

Như vậy, liệu luật giá trị đã bị lật đổ và tiền tệ có thể dễ dàng biến mất khỏi lịch sử?

Marx giải thích thêm rằng, tiền tệ rốt cuộc là thước đo giá trị; là đại diện cho thời gian lao động xã hội cần thiết; và chắc chắn thể hiện một phần của cải tổng thể trong xã hội.

Tiền tệ là công cụ xã hội, hoạt động như phương tiện trao đổi, đơn vị tính toán, và kho lưu trữ giá trị. Và giống như bất kỳ công cụ nào, nó không thể bị loại bỏ cho đến khi trở nên lỗi thời và không cần thiết.

Giống như nhà nước, tiền tệ phải "tiêu vong" trong quá trình chuyển từ giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa xã hội) sang giai đoạn cao hơn của chủ nghĩa cộng sản, khi lực lượng sản xuất phát triển; khi sự khan hiếm chuyển thành dư thừa; và khi sản xuất hàng hóa và trao đổi thị trường được thay thế bằng kế hoạch và phân phối có ý thức.

Chỉ trên cơ sở này, luật giá trị mới có thể được loại bỏ với tư cách là yếu tố điều tiết chính của nền kinh tế, cùng với các biểu hiện của nó: giá cả dao động và tình trạng thiếu hụt.

"Trong một xã hội cộng sản, nhà nước và tiền tệ sẽ biến mất," Trotsky giải thích. "Sự tiêu vong của chúng phải bắt đầu từ chủ nghĩa xã hội." Nhưng ông nhấn mạnh, "tiền tệ không thể bị 'xóa bỏ' một cách tùy tiện":

"Đòn chí mạng đối với sự sùng bái tiền bạc sẽ chỉ được giáng xuống khi sự tăng trưởng bền vững của cải xã hội khiến chúng ta quên đi thái độ hà tiện đối với từng phút lao động thêm, và nỗi sợ hãi đáng xấu hổ khi trăn trở về việc mình nhận được bao nhiêu (như khi còn ở hình thái xã hội cũ - ND)."

Sự tồn tại của chợ đen và tình trạng thiếu hụt tràn lan là những dấu hiệu rõ ràng cho thấy điều kiện vật chất để xóa bỏ hàng hóa, tiền tệ và quy luật giá trị – những điều kiện cần thiết cho chủ nghĩa cộng sản thực sự – chưa tồn tại dưới thời kỳ Cộng sản thời chiến.

Năng suất lao động khi đó rất thấp. Mỗi “phút lao động dư thừa” đều quý giá. Lượng khẩu phần chia cho mỗi người thực sự là đáng xấu hổ.

Trong những điều kiện này, quy luật giá trị không hề suy yếu mà ngược lại, còn thể hiện rõ ràng hơn – điều này được minh chứng qua việc công nhân phải dựa vào trao đổi hàng hóa trực tiếp, hình thức trao đổi cơ bản nhất.

Do đó, Cộng sản thời chiến đại diện cho một bước lùi nhiều hơn là một bước tiến tới việc xây dựng một xã hội cộng sản.

Những người tả khuynh cực đoan đã mắc phải một sai lầm lý thuyết nghiêm trọng: giả định rằng cách mạng đã lật đổ hoàn toàn các quy luật của chủ nghĩa tư bản chỉ trong một lần duy nhất; rằng sở hữu nhà nước đã đủ để vượt qua quy luật giá trị. Sai lầm nghiêm trọng này sau đó sẽ được lặp lại bởi những người theo chủ nghĩa Stalin.

Chính sách Kinh tế mới

Vào cuối năm 1920, tình hình đã thay đổi theo hướng có lợi cho Hồng quân. Điều này tạo ra một khoảng lặng để các Bolshevik xem xét lại các chính sách của Cộng sản thời chiến và lên kế hoạch cho những bước tiếp theo.

Toàn bộ đất nước khi đó chìm trong đổ nát. Mọi khía cạnh của nền kinh tế – công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải – đều tan hoang. Nạn đói và bệnh tật tràn lan khắp nơi. Lạm phát thì vượt khỏi tầm kiểm soát.

Đây chính là bối cảnh ảm đạm cho những cuộc tranh luận trong đảng, bắt đầu từ đầu năm 1921 và đỉnh điểm là việc thông qua Chính sách Kinh tế mới (NEP).

Vấn đề cấp bách nhất lúc bấy giờ là tình trạng thiếu lương thực. Cần phải thu thập thêm ngũ cốc từ nông dân, nhưng chính sách prodrazvyorstka (trưng thu lương thực) đã cạn kiệt khả năng.

Khi mối đe dọa từ lực lượng Bạch vệ suy yếu – và cùng với đó là nguy cơ địa chủ trở lại – nông dân càng ít khoan nhượng hơn với việc trưng thu của nhà nước. Điều này dẫn đến các cuộc nổi dậy ở nông thôn, mà đỉnh điểm là cuộc nổi dậy Kronstadt vào tháng 3/1921.

Những cuộc nổi dậy này là biểu hiện cho thấy hệ thống hiện tại không thể duy trì; rằng các mâu thuẫn giai cấp vẫn chưa được giải quyết; rằng Cộng sản thời chiến không phải là nền tảng để tiến lên chủ nghĩa xã hội, như những người tả khuynh không tưởng đã hình dung.

Chính phủ do đó đã chuyển hướng. Chính sách trưng thu ngũ cốc được thay thế bằng thuế hiện vật tiến bộ. Nông dân chỉ cần nộp một phần sản lượng và có quyền bán lượng dư thừa thông qua các kênh tư nhân. Sự cưỡng chế được thay thế bằng các biện pháp khuyến khích.

Tuy nhiên, bước đi tưởng như nhỏ bé này lại dẫn đến một chuỗi các hệ quả mà không ai lường trước được.

Trước tiên, để nông dân có thể bán ngũ cốc, cần phải có những hàng hóa khác – quần áo, sản phẩm công nghiệp, và các mặt hàng thực phẩm – để họ sử dụng số tiền mới kiếm được.

Điều này đòi hỏi phải đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng. Nhưng các ngành công nghiệp nhà nước lại đang kiệt quệ, và các nguồn lực cần thiết để khôi phục chúng không thể xuất hiện một cách kỳ diệu.

Một cuộc cách mạng thành công ở các nước tư bản phát triển sẽ giải quyết được vấn đề. Nhưng chủ nghĩa tư bản đã sống sót qua làn sóng cách mạng hậu chiến đầu tiên, đạt đỉnh vào năm 1919.

Chính phủ Bolshevik do đó buộc phải dựa vào các nhà sản xuất tư nhân nhỏ lẻ: thợ thủ công, hợp tác xã, và các ngành công nghiệp hộ gia đình, những lĩnh vực không đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Tương tự, các doanh nghiệp quốc doanh trong các ngành công nghiệp nhẹ được mở ra cho tư nhân thuê, được phép sản xuất vì lợi nhuận.

Điều này dẫn đến yêu cầu tiếp theo: phải xóa bỏ kiểm soát giá và hợp pháp hóa thị trường. Điều này cần thiết để nông dân có phương tiện bán thặng dư; để phân phối thực phẩm từ nông thôn đến thành thị; và đưa hàng hóa công nghiệp đến các làng mạc.

Điều đó cũng dẫn đến sự xuất hiện của những “NEP-men” khét tiếng: những thương gia và người buôn bán nhỏ lẻ – vốn đã hoạt động mạnh mẽ dưới thời Cộng sản thời chiến thông qua chợ đen – tiếp tục đóng vai trò trung gian trong mạng lưới thương mại tư nhân, đồng thời kiếm được khoản lợi nhuận đáng kể.

Hệ quả tiếp theo là cần bình ổn tiền tệ. Làm sao có thể giao thương tư nhân mà không có một phương tiện trao đổi đáng tin cậy và giá cả ổn định?

Vấn đề này được đưa ra trong các cuộc thảo luận về NEP tại Đại hội Đảng lần thứ 10 vào tháng 3/1921. Theo E.H. Carr:

“[Việc ổn định tiền tệ] rõ ràng không thể thực hiện được chừng nào máy in tiền còn sản xuất vô tận đồng rúp; và máy in tiền không thể dừng lại chừng nào chính phủ chưa tìm được cách khác để cân bằng thu chi; và việc đưa chi tiêu của chính phủ vào giới hạn của bất kỳ nguồn thu nào khả dĩ vẫn không thể tưởng tượng được nếu nhà nước không giảm bớt chi phí khổng lồ cho các ngành công nghiệp nhà nước và công nhân trong đó.”

Tóm lại, chế độ kinh tế lạm phát hiện tại cần được thay thế bằng chính sách thắt chặt tiền tệ và cắt giảm chi tiêu.

Đến tháng 7/1922, để kiềm chế siêu lạm phát (lúc này đã vượt mức 7.000%), đồng rúp cũ mất giá được thay thế bằng một loại tiền mới có giá trị dựa trên vàng: chervonets.

Một quá trình “hợp lý hóa” được bắt đầu trong ngành công nghiệp nhà nước, được gọi là khozraschet. Các doanh nghiệp nhà nước không còn được dựa vào Ngân hàng Quốc gia mà phải tự hoạt động như những doanh nghiệp độc lập, quản lý tài chính, giảm chi phí, cải thiện hiệu suất, và tạo ra thặng dư (nhưng không nhằm mục tiêu lợi nhuận cá nhân).

Các doanh nghiệp nhỏ và kém lợi nhuận bị cho thuê dưới sự quản lý tư nhân hoặc hợp nhất vào các công ty lớn hơn. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp quan trọng nhất – ngành chủ lực thực sự – vẫn thuộc quyền kiểm soát của nhà nước, sử dụng phần lớn lao động công nghiệp.

Để cân đối ngân sách, các doanh nghiệp nhà nước phải giảm chi phí. Điều này dẫn đến việc thanh lý tài sản hàng loạt, gây ra sự dư thừa hàng hóa công nghiệp trên thị trường trong khi nhu cầu suy yếu, khiến giá giảm so với hàng hóa nông sản, mang lại lợi ích cho nông dân nhưng gây bất lợi cho các nhà sản xuất và người tiêu dùng đô thị.

Những doanh nghiệp này cũng phải sa thải hàng loạt lao động. Quân đoàn lao động “dự trữ” của chủ nghĩa tư bản tái xuất hiện. Bên cạnh đó, khozraschet yêu cầu công nhân được trả lương bằng tiền, với các khoản thưởng để khuyến khích làm việc chăm chỉ hơn.

Đây là cú sốc lớn cho giai cấp công nhân – một sự thay đổi rõ rệt so với việc huy động lao động dưới thời Cộng sản thời chiến, khi việc làm và sinh kế cơ bản được đảm bảo. Carr nhận xét:

“Hình thức kỷ luật lao động thô sơ này nhanh chóng được thay thế bằng ‘đòn roi kinh tế’' cũ của chủ nghĩa tư bản.”

“Lao động như một nghĩa vụ pháp lý,” ông viết, “được thay thế bằng lao động như một nhu cầu kinh tế; sự sợ hãi các hình phạt pháp lý được thay bằng nỗi lo đói khát.”

Carr kết luận:

“Chỉ trong chưa đầy một năm, NEP đã tái hiện các yếu tố cốt lõi của nền kinh tế tư bản.”

Tích lũy chủ nghĩa Xã hội nguyên thuỷ

Từ hành động ban đầu cho phép nông dân bán ngũ cốc dư thừa, một sự chuyển đổi đã diễn ra trên toàn bộ nền kinh tế. Chỉ cần kéo sợi chỉ này ra, chính sách Cộng sản Thời chiến đã tan rã.

Tác động của việc tái áp dụng quan hệ thị trường trong nông nghiệp có thể chưa được dự đoán hết, nhưng chúng không phải là ngẫu nhiên. Việc gỡ bỏ Chính sách Cộng sản Thời chiến thể hiện một nhu cầu tất yếu.

Các phần khác nhau của Chính sách Kinh tế Mới (NEP) tạo thành một tổng thể có sự kết nối chặt chẽ. Bước đi đầu tiên hướng tới thị trường đã dẫn chính phủ đi xa hơn nhiều trên con đường này so với những gì ban đầu dự định. Các áp lực khách quan đã khẳng định mình, đẩy lùi những mong muốn chủ quan.

Liên Xô chưa thoát khỏi – và không thể thoát khỏi – các quy luật của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, đồng thời, nhà nước công nhân không hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của thị trường.

“Nền kinh tế của nhà nước công nhân, trong khi chuyển sang nền tảng thị trường,” Trotsky giải thích vào năm 1922, “vẫn không từ bỏ những bước đầu tiên của nền kinh tế có kế hoạch, ngay cả trong giai đoạn trước mắt.”

“Việc kiểm soát tập trung của nhà nước đối với [các doanh nghiệp công nghiệp chủ chốt],” ông tiếp tục, “sẽ được kết hợp [dưới NEP] với sự kiểm soát tự động của thị trường.”

Theo Trotsky, nhiệm vụ của nhà nước Xô viết là “hỗ trợ loại bỏ thị trường càng nhanh càng tốt.”

Ông nhấn mạnh rằng điều quan trọng là nhà nước công nhân phải sử dụng quyền kiểm soát của mình đối với tín dụng, thương mại nước ngoài và thuế để định hướng nguồn lực cho nền công nghiệp nhà nước.

Độc quyền nhà nước đối với ngoại thương là một phần thiết yếu của chính sách này. Cả Lenin và Trotsky đều kiên quyết phản đối mọi gợi ý rằng độc quyền này nên bị bãi bỏ hoặc nới lỏng. Họ nhấn mạnh rằng điều này sẽ củng cố địa vị của các kulak và tầng lớp NEP-men, làm suy yếu nhà nước công nhân và nền kinh tế có kế hoạch.

Trotsky trình bày rằng các đòn bẩy tài chính và ngân sách trong tay nhà nước “mang lại cơ hội hút ngày càng nhiều hơn các phần thu nhập từ tư bản tư nhân để phục vụ nền kinh tế nhà nước, không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp (thuế hiện vật) mà còn trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.”

Bằng cách này, khu vực tư nhân sẽ bị “buộc phải nộp cống,” như cách mà Trotsky gọi là “tích lũy xã hội chủ nghĩa nguyên thủy,” một cách nhắc đến khái niệm tích lũy nguyên thủy của Marx.

Cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng xã hội này – phản ánh áp lực từ sản xuất hàng hóa và thị trường ở một phía, và kế hoạch nhà nước ở phía kia – vì vậy, đại diện cho một đặc điểm cơ bản của nền kinh tế ‘chuyển tiếp’ Xô viết.

Các quy luật và phạm trù kinh tế của chủ nghĩa tư bản (tiền tệ, giá trị, thặng dư, v.v.) do đó vẫn tồn tại dưới nhà nước công nhân, nhưng ở một hình thức đã được điều chỉnh, chịu sự kiểm soát ngày càng cao hơn một cách có ý thức.

Phục hồi và tái thiết

Trong những năm đầu tiên, Chính sách Kinh tế Mới (NEP) đã mang lại một số sự nhẹ nhõm. Sau đợt hạn hán và nạn đói thảm khốc ở vùng Volga vào năm 1921-22, sản lượng thu hoạch đã được cải thiện. Và từ một nền tảng thấp, ngành công nghiệp bắt đầu phục hồi – chủ yếu bằng cách khôi phục các nhà máy thay vì xây dựng các cơ sở mới.

Mặc dù thị trường đã được khôi phục trong nông nghiệp và thương mại, các ngành công nghiệp chủ chốt vẫn nằm trong tay nhà nước. Chính phủ đã thực hiện các bước để tăng cường tổ chức và lập kế hoạch cho các ngành này.

Ngay từ năm 1920, "Hội đồng Quốc phòng" đã được tái lập thành "Hội đồng Lao động và Quốc phòng", chịu trách nhiệm lập kế hoạch kinh tế cho toàn quốc.

Trong hai năm tiếp theo, Gosplan (Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô) và Gosbank (Ngân hàng trung ương Liên Xô) lần lượt được thành lập. Gosplan chịu trách nhiệm lập kế hoạch tổng thể, dài hạn, bao gồm việc chuẩn bị các dự báo, mục tiêu, cân đối và ngân sách cho sản xuất và tiêu dùng; giám sát việc xây dựng các dự án công nghiệp và hạ tầng lớn; và đảm bảo sự phối hợp giữa các bộ phận kinh tế. Gosbank là ngân hàng trung ương của Liên Xô.

Cả hai cơ quan này bổ sung cho Vesenkha, cơ quan tiếp tục lập kế hoạch và quản lý các ngành công nghiệp nhà nước thông qua các glavki (tập đoàn).

Quá trình phục hồi kinh tế tiếp tục trong những năm tiếp theo – mặc dù có một số trở ngại nghiêm trọng.

Điển hình nhất là "cuộc khủng hoảng chiếc kéo" năm 1923, được đặt tên vì sự phân kỳ ngày càng lớn giữa giá nông sản và giá công nghiệp.

Giai đoạn đầu của NEP đã mang lại lợi ích cho nông dân nhờ giá ngũ cốc cao hơn và giá hàng tiêu dùng thấp hơn. Tuy nhiên, khi sản lượng nông nghiệp tăng nhanh hơn sản lượng công nghiệp, giá cả giữa hai lĩnh vực này đã đảo ngược. Trong khi đó, tất cả giá cả đều tăng so với thu nhập, bất chấp nỗ lực của chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát.

Các biện pháp kiểm soát giá đối với hàng hóa công nghiệp do nhà nước sản xuất đã được áp dụng, nhưng điều này chỉ dẫn đến tình trạng thiếu hụt lớn hơn. Kết quả là căng thẳng gia tăng giữa nông thôn và thành thị, cùng sự phản đối của nông dân, những người ngày càng cảm thấy mình bị thua thiệt.

Sự kiện này đã phơi bày sự bất ổn vốn có trong nền kinh tế Xô viết; sự khó khăn trong việc đạt được sự tăng trưởng hài hòa dựa trên trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất; và những bùng nổ xã hội có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đây không chỉ là vấn đề "chiếc kéo", mà thực chất là việc phải cân bằng trên lưỡi dao.

Đến năm 1925-26, công suất công nghiệp hiện có hầu như đã được khôi phục, và sản lượng nông nghiệp và công nghiệp đạt mức trước chiến tranh.

Không còn bị cuốn vào cuộc đấu tranh sinh tồn ngay lập tức, sự chú ý của đảng bắt đầu chuyển từ phục hồi sang "tái thiết" – chuẩn bị nền tảng cho giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Hình thức của giai đoạn này sẽ là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, tranh cãi không chỉ xoay quanh đúng sai của chính sách kinh tế. Đây là một cuộc đấu tranh chính trị về số phận của cuộc cách mạng.

Sự trỗi dậy của bộ máy quan liêu

Lenin đã mô tả việc áp dụng Chính sách Kinh tế Mới (NEP) như một sự thỏa hiệp với tầng lớp tiểu tư sản; một thất bại và sự rút lui, nhưng dù sao cũng là cần thiết; một nỗ lực nhằm kéo dài thời gian cho đến khi một "phao cứu sinh" có thể đến từ các cuộc cách mạng thành công ở nơi khác.

Tuy nhiên, với sự phụ thuộc vào các phương pháp thị trường, NEP đã mang lại những hệ quả chính trị quan trọng. Về mặt kinh tế, nó nuôi dưỡng các kulak, các nhà buôn tư nhân và các yếu tố tư bản khác, gia tăng trọng lượng xã hội của họ so với giai cấp công nhân. Nghịch lý thay, những tầng lớp ký sinh này lại hưởng lợi từ nhà nước công nhân nhiều hơn chính giai cấp công nhân.

Điều này, cuối cùng đã đặt nền móng cho sự trỗi dậy của bộ máy quan liêu Stalinist.

Giai cấp công nhân bị tha hóa khỏi nhà nước của chính mình và khỏi sản xuất, do kiệt sức. Những người Bolshevik buộc phải dựa vào một tầng lớp cựu quan chức, nhà quản trị và chuyên gia để vận hành xã hội. Và như Trotsky đã nói, có một nhu cầu khách quan cần “một người cảnh sát để giữ trật tự” trong điều kiện thiếu thốn tràn lan.

Sự lớn mạnh của tầng lớp NEP-men và kulak đã đẩy nhanh quá trình này, gây áp lực lên bộ máy quan liêu buộc phải thích nghi với khuôn khổ thị trường mới, và dựa vào các xu hướng tư bản trong xã hội Xô Viết.

Do đó, song song với NEP, Lenin đã kêu gọi một chiến dịch chống lại quan liêu và chủ nghĩa cơ hội trong nhà nước và đảng, đồng thời thực hiện các bước để củng cố nền dân chủ của giai cấp công nhân. Nếu phải đưa ra các nhượng bộ kinh tế cho tầng lớp tư sản và tiểu tư sản, thì cần phải cân bằng điều này bằng các biện pháp chính trị để củng cố nhà nước công nhân.

Vào tháng 10 năm 1923, khi Lenin suy yếu vì bệnh tật, Trotsky và những người ủng hộ ông đã thành lập phe Đối lập cánh tả nhằm chống lại sự suy thoái quan liêu của đảng, đồng thời bảo vệ nhà nước công nhân với tư cách là một nhà nước của công nhân. Chương trình của họ bao gồm những chỉ trích gay gắt về NEP vì vai trò của nó trong việc nuôi dưỡng tầng lớp kulak, thương nhân và trung gian.

Ở phía đối lập là phe đối lập cánh hữu, do Bukharin lãnh đạo. Trong thời kỳ Cộng sản thời chiến, Bukharin từng gần gũi với cánh tả cực đoan, nhưng sau đó ông chuyển hẳn sang hướng khác, trở thành người ủng hộ nhiệt thành việc kích thích tăng trưởng thông qua các phương pháp thị trường – tóm gọn trong lời kêu gọi của ông tới nông dân: “Hãy làm giàu đi!”

Ở giữa là Troika: bộ ba quyền lực gồm Stalin, Zinoviev và Kamenev, đại diện cho lợi ích của bộ máy quan liêu đang phình to. Trotsky mô tả phe phái này là "trung dung", tức là nằm giữa chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa cải cách.

Cái chết của Lenin năm 1924 chắc chắn là một cú sốc. Nhưng sự ra đi của ông không phải là yếu tố quyết định trong sự suy thoái của Đảng Bolshevik và nhà nước Xô Viết. Như Krupskaya, người bạn đời của Lenin, sau này nhận xét: nếu Lenin còn sống, ông cũng sẽ kết thúc cuộc đời trong một trại tù của Stalin.

Ranh giới chiến tuyến được vạch ra

Câu hỏi về việc Liên Xô sẽ phát triển công nghiệp như thế nào đã trở thành điểm nóng quan trọng trong giai đoạn này, trong cuộc đấu tranh giữa cánh vô sản và cánh tiểu tư sản của Đảng Cộng sản.

Cả hai phe đều ủng hộ công nghiệp hóa. Vấn đề là cách thực hiện điều đó và tốc độ ra sao.

Trotsky và những người ủng hộ ông kêu gọi lập và thực hiện một kế hoạch công nghiệp hóa mang tính cách mạng. Theo họ, cần ưu tiên đầu tư vào ngành công nghiệp quy mô lớn – các nhà máy không chỉ sản xuất tư liệu sản xuất (bao gồm các vật liệu như thép và hóa chất), mà còn sản xuất “tư liệu để sản xuất tư liệu sản xuất”: thiết bị công nghiệp, công cụ máy móc, v.v.

Để nâng cao năng suất nông nghiệp, cần phải cơ giới hóa và hiện đại hóa. Điều này đòi hỏi phải xây dựng các trang trại tập thể quy mô lớn, vì tình trạng sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, lạc hậu – phân tán trên 20-25 triệu hộ gia đình – không thể đáp ứng nhu cầu sử dụng máy kéo và các kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến.

Quan trọng là, Trotsky và phe Đối lập Cánh Tả nhấn mạnh rằng nông dân nghèo và trung lưu cần được khuyến khích – chứ không phải bị ép buộc – tham gia vào các trang trại tập thể, bằng cách chứng minh rằng mô hình này có thể mang lại mức sống tốt hơn so với nền nông nghiệp nhỏ lẻ, nặng nhọc truyền thống.

Để đạt được cả hai mục tiêu này, Trotsky đã kêu gọi thực hiện các công trình kỹ thuật quan trọng, bao gồm việc xây dựng một đập thủy điện trên sông Dnieper để cung cấp năng lượng cho làn sóng mới các nhà máy và trang trại hiện đại.

Dựa trên các biện pháp kinh tế có hệ thống và toàn diện như vậy, Trotsky và những người ủng hộ khẳng định rằng có thể đạt được sự tăng trưởng vượt bậc trong hai kế hoạch 5 năm, cao hơn nhiều so với các mục tiêu cực kỳ khiêm tốn mà các quan chức Gosplan đề ra.

Phe Stalin đã chế giễu những đề xuất này. Lenin từng nổi tiếng tóm tắt chủ nghĩa cộng sản là “chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hóa”. Thế nhưng, Stalin đã đáp trả đề xuất xây dựng đập Dnieper của Trotsky bằng câu nói mỉa mai rằng điều này chẳng khác gì tặng một người nông dân “một cái máy hát thay vì một con bò”.

Những lời kêu gọi về một kế hoạch 5 năm tham vọng bị lên án là phi thực tế. Trotsky bị buộc tội là một kẻ “siêu công nghiệp hóa”. Bukharin đặc biệt cảnh báo rằng các chính sách như vậy sẽ dẫn đến sự rạn nứt với giai cấp nông dân.

Về căn bản, những lời chỉ trích này phản ánh bản chất bảo thủ vốn có của bộ máy quan liêu và lợi ích của tầng lớp tiểu tư sản mà Stalin và Bukharin dựa vào – điều này cũng được thể hiện qua quan điểm “chủ nghĩa xã hội trong một nước".

Phe Stalin, lo sợ phản ứng dữ dội của nông dân trước bất kỳ biện pháp nào gây áp lực kinh tế lên vùng nông thôn, đã kêu gọi công nghiệp hóa được tài trợ chủ yếu từ nội bộ ngành công nghiệp nhà nước, bằng cách giảm chi phí và cải thiện năng suất trong các doanh nghiệp quốc doanh.

Nhưng những chính sách như vậy chỉ có thể giải phóng một lượng nhỏ tài nguyên để tái đầu tư vào các phương tiện sản xuất mới – do đó, dẫn đến các mục tiêu tăng trưởng bảo thủ của phe Stalin trong thời gian này.

Thay vào đó, Bukharin đề xuất rằng nông dân nên được khuyến khích tạo ra một lượng thặng dư nguyên liệu thô lớn nhất có thể, để sau đó có thể đổi lấy máy móc và thiết bị công nghiệp trên thị trường thế giới.

“Bukharin từng nói rằng sẽ cưỡi trên lưng con ngựa nhà nông để tiến vào chủ nghĩa xã hội,” nhà sử học kinh tế Alec Nove nhận xét. “Nhưng liệu con ngựa nhà nông có chịu đi đúng hướng? Đảng có kiểm soát được nó không?”

Đây là những ranh giới cơ bản xung quanh cuộc tranh luận về tái xây dựng năm 1925-1927: tiền đề cho việc trục xuất Trotsky và phe Đối lập Cánh Tả, những bước đi ngoắt ngoéo của phe Stalin, và việc thực hiện một cách quan liêu kế hoạch 5 năm đầu tiên.

Cuộc đấu tranh lý thuyết

Cuộc đấu tranh giữa phe đa số theo chủ thuyết Stalin và phe Đối lập cánh tả không chỉ diễn ra trên bình diện chính trị mà còn trên cả mặt trận lý thuyết.

Trong giai đoạn này Yevgeni Preobrazhensky đã cho ra mắt một tác phẩm đáng chú ý có tên gọi The New Economics. Được viết vào năm 1926, đây là lời đáp trả các chính sách của Stalin và Bukharin, và là một nỗ lực phát triển một hệ lý thuyết về nền kinh tế Liên Xô với mục đích là một tài liệu định hướng cho hành động.

Preobrazhensky muốn chứng minh rằng chương trình của phe Đối lập cánh tả là đúng đắn và cần thiết: đúng đắn khi nêu bật tiềm năng công nghiệp hóa nhanh chóng; và cần thiết để nắm vững khoa học của việc lập kế hoạch và phát triển lực lượng sản xuất theo đường lối xã hội chủ nghĩa.

Thông qua phép so sánh, ông lập luận rằng Bukharin và Stalin (lúc này đang liên minh với nhau) trên thực chất đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên chính sách kinh tế của họ.

Những người theo chủ nghĩa Stalin hành động theo kinh nghiệm, bị thúc đẩy bởi ‘chủ nghĩa thực dụng’ và lợi ích quan liêu hẹp hòi, chứ không phải những suy tính dựa trên lý thuyết. Giống như các nhà kinh tế tư sản ngày nay, họ không thực sự hiểu hệ thống kinh tế của chính họ.

Bộ máy quan liêu và những chóp bu của nó được hình thành bởi các sự kiện (trong Cách mạng tháng 10 - ND). Không nhận ra điều đó, đám chóp bu đã áp dụng các chính sách hoàn toàn phù hợp với quy luật giá trị – đó là đưa ra kết luận cho sự tái hòa nhập hoàn toàn của Liên Xô vào thị trường thế giới tư bản chủ nghĩa.

Marx giải thích rằng nếu không bị cản trở trong hệ thống thị trường, tư bản sẽ đổ về những lĩnh vực mang lại tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Áp dụng vào trường hợp ở Nga trong những năm thực hiện NEP, điều này có nghĩa là tư bản sẽ đổ vào đầu tư nông nghiệp, xét đến những gì các nhà kinh tế tư sản gọi là 'lợi thế so sánh' của nước Nga khi ấy: Nguồn lao động nông thôn dồi dào, mặt khác lại thiếu máy móc trầm trọng (vốn là nền tảng cho công nghiệp nặng - ND). Và về bản chất, việc chính sách đầu tư nông nghiệp này chính là những gì Bukharin và Stalin đã kêu gọi.

Phe Đối lập cánh tả giải thích rằng những chính sách của Stalin sẽ không dẫn đến chủ nghĩa xã hội, mà là sự tái thiết của chủ nghĩa tư bản. Thay vì xây dựng ngành công nghiệp được quốc hữu hóa, chiến lược này chỉ khiến nền kinh tế Liên Xô phụ thuộc nhiều hơn vào việc xuất khẩu nguyên liệu thô, hệt như một quốc gia thuộc địa.

Hơn nữa, bằng cách nhấn mạnh rằng phát triển công nghiệp phải được tự tài trợ từ bên trong khu vực nhà nước, những người theo chủ nghĩa Stalin đã làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế, và do đó làm gia tăng khoảng cách ngày càng lớn giữa Liên Xô và các nước tư bản tiên tiến.

Dựa trên chính sách này, nước Nga sẽ không được công nghiệp hóa mà sẽ bị kìm tỏa trong tình trạng lạc hậu vĩnh viễn, dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc và thị trường thế giới.

Đồng thời, vì tập trung vào sản xuất nông nghiệp, vị thế của phú nông (kulak) sẽ được củng cố. Sau cùng, điều này sẽ tạo ra xung đột giữa nông thôn và nhà nước công nhân, khi những phú nông đòi quyền được tiếp cận một cách trực tiếp và tự do vào thị trường thế giới theo các yêu sách của riêng họ.

Trotsky và Preobrazhensky nhấn mạnh rằng cần phải có những bước đi tích cực nhằm dẹp bỏ quá trình này và tích cực quốc hữu hóa của cải từ khu vực tư nhân, bằng không sự tích lũy trong tương lai sẽ cực kì có lợi cho các thành phần tư sản trong xã hội.

Tức là, những áp lực này cuối cùng sẽ dẫn tới câu hỏi – và nguy cơ – về việc khôi phục chủ nghĩa tư bản.

Thay vào đó, Trotsky và phe Đối lập cánh tả nhấn mạnh đến sự cần thiết của cái mà họ gọi là "quy luật tích lũy xã hội chủ nghĩa nguyên thủy".

Như đã giải thích trước đó, thuật ngữ này gợi nhớ đến giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi hệ thống tư bản non trẻ vẫn đang tích lũy của cải và nguồn lực cần thiết để phát triển công nghiệp trên cơ sở lợi nhuận.

Marx giải thích trong Tư bản luận rằng sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản không dựa trên sự trao đổi bình đẳng, tức là tuân thủ quy luật giá trị, mà dựa trên sự cướp bóc và chiếm đoạt – thông qua chủ nghĩa thực dân, chế độ nô lệ và vũ lực của nhà nước.

Tương tự như vậy, phe Đối lập cánh tả lập luận rằng, do sự lạc hậu và tình thế cô lập của mình, Liên Xô sẽ phải tích lũy các nguồn lực để công nghiệp hóa thông qua trao đổi không bình đẳng với các khu vực kinh tế phi nhà nước. Họ lập luận rằng đây là một nhu cầu tất yếu phải được hiểu và chuyển thành chính sách của đảng cho phù hợp.

Nghĩa là việc ấn định giá cả, áp thuế và sử dụng độc quyền của nhà nước sẽ được áp đặt lên tài chính và ngoại thương, theo đó nguồn lực sẽ rời khỏi tay nông dân và thương nhân tư nhân và hướng về nhà nước của công nhân.

Trên cơ sở này, sự tích lũy có thể được đẩy nhanh trong khu vực nhà nước, hi sinh lợi ích của các phú nông và những kẻ giàu lên từ NEP, rồi tiến hành công nghiệp hóa đất nước thành một cường quốc công nghiệp hiện đại. Nếu không làm như vậy, nền kinh tế Liên Xô sẽ vẫn lạc hậu, phụ thuộc vào lao động năng suất thấp.

Sự tích lũy xã hội chủ nghĩa nguyên thủy sẽ cần thiết cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển đầy đủ và kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi – đó là khi đạt được giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản, và nhà nước, tiền tệ và mâu thuẫn giai cấp sẽ bắt đầu suy yếu.

Về mặt này, các yêu cầu của tích lũy xã hội chủ nghĩa nguyên thủy cũng là một quy luật khách quan đối với chế độ Xô Viết trong quá trình chuyển tiếp giống như quy luật giá trị, và đã được thể hiện rõ.

Tuy nhiên, cả Trotsky và Preobrazhensky đều nhấn mạnh rằng quy luật giá trị vẫn chưa biến mất. Sự phổ biến của các mối quan hệ thị trường, cả bên trong và bên ngoài, cũng như sự non nớt của các lực lượng sản xuất và tình trạng khan hiếm liên tục đã giữ cho quy luật này còn tồn tại trong nền kinh tế Liên Xô.

Những yếu tố khách quan này đã hạn chế các nhà hoạch định của Liên Xô. Nền kinh tế không thể tăng trưởng với tốc độ nhanh và bứt phá. Điều này sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt, lạm phát và mất ổn định xã hội – vốn là tất cả các triệu chứng của quy luật giá trị.

Nhưng những tác động của quy luật này đã phần này bị hạn chế bởi sức mạnh ngày càng tăng của khu vực nhà nước và kế hoạch hóa. Việc phân bổ lao động và phương tiện sản xuất không còn được điều chỉnh đơn thuần bởi các lực lượng thị trường mù quáng, mà còn bởi hoạch toán kinh tế và cách thức tổ chức.

Như Preobrazhensky đã nói, giờ đây đã có “một phương pháp mới để đạt sự cân bằng trong hệ thống kinh tế, vốn dựa vào sự kế hoạch một cách có ý thức và tính toán thực tế về các nhu cầu kinh tế”.[32]

“Có hai quy luật vận hành cùng một lúc với khuynh hướng hoàn toàn đối lập nhau,” Preobrazhensky phát biểu. Trong quy luật giá trị, “quá khứ đè nặng lên chúng ta, cố chấp gắng sức duy trì sự tồn tại và quay ngược bánh xe lịch sử.”[33] Ngược lại:

“Nền kinh tế nhà nước càng được tổ chức chặt chẽ thì các cấu phần riêng biệt của nó càng được thống nhất chặt chẽ hơn bởi một kế hoạch kinh tế tổng thể đang vận hành… sức đề kháng của nó đối với quy luật giá trị càng mạnh, ảnh hưởng tích cực của nó đối với các quy luật sản xuất hàng hóa càng lớn, bản thân nó càng… được chuyển đổi thành yếu tố quan trọng nhất duy trì sự vận hành đều đặn trong toàn bộ nền kinh tế.”[34]

Tương tự như vậy, nhà lý luận Marxist Ted Grant đã giải thích rằng khi một xã hội quá độ đang cố gắng tiến tới chủ nghĩa xã hội, “cần phải áp dụng một số luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội và một số luật đặc thù của chủ nghĩa tư bản”.[35]

Về bản chất, đây là cuộc chiến giữa phương thức sản xuất cũ và xã hội mới đang thoát thai.

Trotsky có cùng chung nhận định với Preobrazhensky khi đánh giá về nhu cầu "tích lũy xã hội chủ nghĩa nguyên thủy". Nhưng ông phản đối mạnh mẽ việc ứng dụng khái niệm này​​​​​ một cách thô thiển và máy móc.

Phát triển hài hòa là điều cần thiết – trên hết là từ quan điểm chính trị – để duy trì mối liên hệ giữa giai cấp công nhân thành thị và quần chúng nông dân nghèo. Bất kì ý tưởng nào về việc việc ‘cướp bóc’ từ giai cấp nông dân sẽ phải bị dẹp bỏ, vì chủ nghĩa tư bản châu Âu đã rút cạn các thuộc địa của chính nó.

Tín dụng, thuế và thiết lập giá cả nên được định hướng theo đường lối hướng "trao đổi bất bình đẳng", theo phác lược của Trotsky, ưu tiên thị trấn và công nghiệp hơn nông thôn. Nhưng vấn đề không nên bị đẩy đến mức khủng hoảng, gây ra xung đột công khai giữa giai cấp nông dân và nhà nước công nhân.

Hơn nữa, Trotsky nhấn mạnh rằng không thể cứ thế hy sinh mức sống của công nhân một cách vô tội vạ làm vật đảm bảo cho tốc độ công nghiệp hóa. Công nhân và nông dân phải tự cảm nhận được sự tiến bộ đang diễn ra.

Trên hết, Trotsky nhấn mạnh, lý thuyết “tích lũy xã hội chủ nghĩa nguyên thủy” không thể thực hiện song hành với lý thuyết “chủ nghĩa xã hội trong một nước” như những người theo chủ nghĩa Stalin ủng hộ.

Ngay cả khi kế hoạch kinh tế của phe Đối lập cánh tả được thông qua toàn bộ, thì điều này cũng không thể dẫn đến việc thành lập chủ nghĩa xã hội, chừng nào Liên Xô vẫn bị cô lập và bị bao vây bởi thị trường tư bản chủ nghĩa. Chỉ có con đường cách mạng thế giới là lối thoát duy nhất.

Tập thể hóa cưỡng bức

Mối nguy hiểm từ cách tiếp cận theo kinh nghiệm của Stalinists đã sớm trở nên rõ ràng.

Sau khi đánh bại Trotsky và phe Đối lập thống nhất (là sự liên minh giữa Đối lập cánh tả với phe của Zinoviev và Kamenev - ND) tại đại hội đảng lần thứ 15 vào tháng 12 năm 1927, Stalin đã đội lốt cách mạng và đột nhiên ngả theo hướng tả khuynh. Ông ta đột nhiên trở thành người ủng hộ công nghiệp hóa nhanh chóng, và bắt đầu khiển trách Bukharin và phe đối lập cánh hữu vì đã thích nghi với khuynh hướng tư sản.

Nguyên do kinh tế cho sự quay ngoắt này rất rõ ràng. Như phe Đối lập cánh tả đã cảnh báo, những kulak và nông dân giàu có đã trở nên hùng mạnh bởi NEP. Và họ chống lại mọi nỗ lực kiềm chế và trở nên đặc biệt thù địch với việc xã hội hóa nông nghiệp vì điều này đe dọa đến lợi ích của họ.

Tuy nhiên, nếu không có tập thể hóa, và sau đó là cơ giới hóa và điện khí hóa, thì không thể cải thiện năng suất đất đai. Và nếu năng suất nông nghiệp không gia tăng, thì chẳng có cách nào để nuôi sống dân số đô thị đang ngày càng mạnh mẽ, vốn là một thành phần cần thiết để công nghiệp hóa.

Carr bình luận, “Nông dân sẽ phải cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm nông nghiệp cho các thành thị và ngành công nghiệp đang phát triển”. Tuy nhiên, nếu điều này “gây áp lực quá lớn cho nông dân”, “họ sẽ giảm lượng sản phẩm nông nghiệp được giao, tích trữ thặng dư, giảm sản lượng gieo trồng cho thị trường và quay lại tình trạng tự cung tự cấp”.

“Vì vấn đề tế nhị này, mối quan hệ giữa chế độ và nông dân sẽ biến đổi,” Carr kết luận.[36]

Bận tâm thanh trừng phe Cánh tả, những người theo chủ nghĩa Stalin đã lờ đi xung đột âm ỉ này trong một thời gian. Nhưng sự suy giảm nguồn cung ngũ cốc vào cuối năm 1927 đã đẩy mâu thuẫn này đến cao trào.

Khi những lời cảnh báo của phe Đối lập cánh tả thành hiện thực, bộ máy quan liêu đã buộc phải thực hiện chính sách “tích lũy xã hội chủ nghĩa nguyên thủy”, nhưng theo cách thiển cận và phản động nhất.

Sau khi dựa vào giai cấp tiểu tư sản để giáng đòn vào phe Cánh tả, Stalin hiện đang dựa vào giai cấp công nhân để giáng đòn vào phe Cánh hữu – trong cả hai trường hợp đều nhằm củng cố vị thế và quyền lực của chính mình.

Sự thay đổi đột ngột này đã làm nhiều người liên kết với Trotsky mất phương hướng. Trong đó có Preobrazhensky, người đã kết luận rằng, vì bộ máy quan liêu hiện đang thực hiện những chương trình của chính nó, nên đã đến lúc “làm hòa với đa số đảng vì một tương lai mới”.[37]

Về phần mình, Trotsky dự đoán rằng sự thay đổi của những người theo chủ nghĩa Stalin sẽ không dẫn đến chủ nghĩa xã hội, mà là thảm họa – và sự củng cố hơn nữa bộ máy quan liêu phản động.

Những dự đoán của ông nhanh chóng thành hiện thực. Không có hàng hóa sản xuất để đổi lấy ngũ cốc, chính quyền đã dùng đến các biện pháp đàn áp để giải quyết cuộc khủng hoảng nông nghiệp.

Từ đầu năm 1928, bộ máy quan liêu Stalin đã tiến hành một chiến dịch ngày càng khắc nghiệt chống lại phú nông và tệ đầu cơ. Nhưng các viên chức nhà nước thường không phân biệt rõ giữa tầng lớp giàu có hơn và tầng lớp trung lưu và nông dân nghèo, đã buộc những người nông dân nghèo vào vòng tay của đám phú nông. Khi ấy, ký ức về chủ nghĩa cộng sản thời chiến vẫn còn mới mẻ.

Chẳng bao lâu sau, Stalin đã kêu gọi tập thể hóa cưỡng bức và ‘giải tán tầng lớp phú nông'. Nhưng điều này chỉ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng lương thực.

Do nhà nước vơ vét gần như toàn bộ ngũ cốc, nông dân chỉ còn lại một ít lương thực để tự nuôi bản thân và gia súc của họ. Điều này dẫn tới sự sụt giảm lao động và phân bón cho các cánh đồng, ảnh hưởng trầm trọng thêm đến năng suất.

Đến năm 1932, sản lượng nông nghiệp đã giảm xuống còn 73 phần trăm so với mức của năm 1928.[38] Các hàng dài người xếp hàng mua bánh mì xuất hiện ở các thành phố. Chế độ phân phối khẩu phần đã quay trở lại. Những kẻ 'mang túi' (nguyên văn: bagmen - chỉ những người bần cùng phải vất vả tìm và đổi chác thức ăn - ND) lại xuất hiện. Và hàng triệu người chết vì suy dinh dưỡng và bệnh tật.

Chỉ tiêu và khủng hoảng

Trong bối cảnh đó, các viên chức của Gosplan và Vesenkha đang bận rộn xây dựng kế hoạch năm năm đầu tiên. Trước đây, họ đã từng chịu áp lực để giảm thiểu các đề xuất của mình, giờ đây các mục tiêu cực kỳ tham vọng lại trở thành luật lệ mới.

Các cuộc tranh luận diễn ra giữa các nhà kinh tế học Liên Xô về việc nền kinh tế kế hoạch nên được để phát triển một cách 'tự nhiên’ hay nên được kế hoạch một cách ‘tất định’ từ trước đó. Những người ủng hộ quan điểm tự nhiên tin rằng kế hoạch chỉ nên bao gồm các dự báo những thay đổi kinh tế hữu cơ, vô chính phủ. Những người ủng hộ quan điểm tất định kinh tế nhấn mạnh nhu cầu đặt ra mục tiêu và sau đó định hình xã hội theo đó thông qua những nỗ lực có ý thức.

Ngắn gọn thì, phe ‘tự nhiên’ là cánh hữu, và phụ thuộc nhiều hơn vào các phương pháp thị trường để mang lại sự cân bằng kinh tế. Phe ‘tất định’ phản ánh quan điểm chủ quan của bộ máy quan liêu Stalinist – với niềm tin rằng việc lập kế hoạch sản xuất chỉ cần ý chí và một bàn tay cứng rắn.

Chính quan điểm của những người theo thuyết tất định và chủ nghĩa Stalin đã định hình nên kế hoạch năm năm đầu tiên. Kế hoạch này chính thức được triển khai vào tháng 10 năm 1928. Những mục tiêu của nó chỉ được chính thức chấp thuận vào mùa xuân năm sau, sau khi phe Đối lập cánh hữu bị đánh bại. NEP đã kết thúc.

Bất chấp những hạn chế của bộ máy quan liêu và phí tổn xã hội khổng lồ, kế hoạch của Liên Xô đã tạo ra sự tiến bộ to lớn. Ngay cả những ước tính của giai cấp tư sản cũng cho thấy nền kinh tế đã tăng trưởng khoảng 62-72% theo kế hoạch năm năm đầu tiên và thứ hai, trong giai đoạn 1928-37. Sản lượng bình quân đầu người tăng vọt 60%.[39]

Ngành công nghiệp được tái trang bị và phát triển nhanh chóng. Đất nước đã được chuyển đổi bởi các dự án ấn tượng như đập thủy điện Dnieper, việc xây dựng bắt đầu vào năm 1927, chỉ vài tháng sau khi bị Stalin bãi bỏ trước đó. Giáo dục và chăm sóc sức khỏe đã có những cải thiện đáng kể. Liên Xô đã thoát khỏi tình trạng lạc hậu và tiến vào thời hiện đại.

Trong cùng thời kỳ này, nền kinh tế phương Tây đang phải gánh chịu cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất trong lịch sử chủ nghĩa tư bản: cuộc Đại suy thoái.

Tuy nhiên, ngay từ đầu, tiềm năng lập kế hoạch đã bị cản trở bởi cách tiếp cận chỉ huy, phi khoa học của bộ máy quan liêu Liên Xô. Stalin và những kẻ cùng phe cánh có thể đã thay đổi giọng điệu kể từ thời NEP, nhưng tất cả những khiếm khuyết trong bộ máy quan liêu của nó vẫn còn.

Bukharin đã từng kêu gọi ngành công nghiệp thích nghi với nông nghiệp, trở thành nô lệ của nông dân. Nhưng giờ đây, các nhà hoạch định quan liêu đang đặt ra mục tiêu mà không quan tâm đến giới hạn thực sự về mặt vật chất, sản xuất hay chính trị.

Lời khuyên của các kỹ sư và chuyên gia đã bị bỏ qua, cũng như dữ liệu và mô hình khoa học, để ủng hộ các chỉ tiêu dựa trên danh tiếng, chứ không phải sự thật. Chỉ tiêu được đề ra đã nêu là bắt kịp các cường quốc đế quốc càng nhanh càng tốt và bằng mọi giá.

Chủ nghĩa bảo thủ Stalinists trong những năm NEP giờ đã được thay thế bằng chủ nghĩa phiêu lưu. Nhưng triết lý đằng sau cả hai cách tiếp cận đều giống nhau: chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa chủ quan – đó là ý tưởng rằng nền kinh tế Liên Xô không bị chi phối bởi các quy luật và giới hạn khách quan. Đây là điều cần phải được hiểu để nắm bắt được các quyết định kinh tế của lãnh đạo Stalinists.

Stanislav Strumilin, một trong những kiến ​​trúc sư của kế hoạch năm năm đầu tiên, đã phát biểu một cách thẳng thắn:

“Nhiệm vụ của chúng ta không phải là nghiên cứu kinh tế mà là thay đổi nó. Chúng ta không bị ràng buộc bởi bất kỳ luật lệ nào. Không có pháo đài nào mà những người Bolshevik không thể tấn công. Vấn đề về nhịp độ [công nghiệp hóa] phụ thuộc vào quyết định của con người.”[40]

Nhưng bất chấp những tuyên bố khoa trương của bộ máy quan liêu, sự phát triển của nền kinh tế Liên Xô theo kế hoạch năm năm đầu tiên không phải bước vọt liên tục. Có những lúc tăng trưởng bị chững lại. Năm 1931-32 chứng kiến ​​sự suy thoái mạnh.

Liên Xô đang phải đối mặt với một điều mà ngay cả những người Bolshevik cũng không thể “vượt qua”: những hạn chế do chính động lực nội tại của Liên Xô và áp lực bên ngoài của chủ nghĩa tư bản thế giới gây ra.

Những kẻ bè phái hời hợt lấy đây làm bằng chứng để chứng minh rằng Liên Xô là một hình thức 'chủ nghĩa tư bản nhà nước'. Nhưng các cuộc khủng hoảng kinh tế của Liên Xô có bản chất khác biệt cơ bản so với những cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản.

Khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản về cơ bản là kết quả của tình trạng sản xuất thừa: sự tích lũy vốn dư thừa trên toàn nền kinh tế; một mâu thuẫn cơ bản phát sinh từ quy luật giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận (giá trị thặng dư) tức là lao động không được trả công của giai cấp công nhân.

Ngược lại, các cuộc khủng hoảng ở Liên Xô là cuộc khủng hoảng sản xuất dưới mức, phát sinh từ kế hoạch quan liêu; từ các nhà lãnh đạo Stalin đặt ra các mục tiêu không thực tế, rồi gây sức ép lên toàn bộ nền kinh tế để đạt được các mục tiêu này – tạo ra sự đổ vỡ và rạn nứt, mất cân đối và tắc nghẽn, thiếu hụt và lạm phát.

Khủng hoảng dưới chủ nghĩa tư bản là dấu hiệu cho thấy lực lượng sản xuất đã vượt quá giới hạn của thị trường, rằng sự tích lũy của chủ nghĩa tư bản đã đi quá xa, thể hiện ở tình trạng dư thừa hàng hóa không bán được.

Cuộc khủng hoảng trong nền kinh tế kế hoạch hóa theo kiểu quan liêu của Liên Xô là dấu hiệu cho thấy các mục tiêu đã vượt quá giới hạn của lực lượng sản xuất, rằng sự tích lũy xã hội chủ nghĩa chưa đi đủ xa, thể hiện qua những dãy kệ hàng trống không. Như Ted Grant bình luận:

Nhà nước hiện có thể điều chỉnh, nhưng không thể điều chỉnh tùy tiện, mà chỉ trong điều chỉnh phạm vi của quy luật giá trị. Bất kỳ nỗ lực nào vi phạm và vượt qua những giới hạn nghiêm ngặt do sự phát triển của chính lực lượng sản xuất đặt ra, sẽ ngay lập tức dẫn đến việc tái khẳng định sự thống trị của sản xuất đối với người sản xuất… Quy luật giá trị không bị bãi bỏ, mà bị biến đổi.”[41]

Sau khi phản đối các luật lệ của thị trường tư bản, bộ máy quan liêu phải đối mặt với các quy luật khác mà họ không hiểu. Điều này sẽ có những tác động lớn đến số phận của Liên Xô.

Khoa học kế hoạch hóa

Khi kế hoạch năm năm đầu tiên sắp kết thúc, rõ ràng là các vấn đề đang chồng chất trong nền kinh tế Liên Xô. Nhưng bộ máy quan liêu vẫn nhắm mắt làm ngơ, và tiếp tục với kế hoạch năm năm thứ hai – đặt ra những mục tiêu thậm chí còn vô lý hơn, và bịt miệng bất kỳ ai phản đối.

Căng thẳng giữa thành thị và nông thôn gia tăng. Sự mất cân bằng giữa các bộ phận khác nhau của nền kinh tế gia tăng. Cả số lượng và chất lượng hàng hóa đều giảm sút. Người lao động phải chịu áp lực thể chất quá mức, buộc phải làm việc nhiều giờ và sống trong điều kiện chật chội, xuống cấp. Và các cuộc thanh trừng của Stalin càng khuếch đại thêm những mâu thuẫn này.

Trotsky đã chứng kiến ​​những thảm họa này khi đang lưu vong, sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô vào năm 1929.

“Vấn đề cốt lõi xuất phát từ bước nhảy vọt trong công nghiệp hóa đã khiến nhiều yếu tố khác nhau của kế hoạch này mâu thuẫn nhau một cách khủng khiếp,” ông viết vào năm 1932. “Các công cụ xã hội và chính trị để xác định hiệu quả của kế hoạch đã bị phá vỡ hoặc bị bóp méo. Vấn đề còn tới từ sự mất cân đối tích lũy, tạo ra những nguy cơ lớn hơn và nhiều hơn nữa.”

“Cốt lõi của vấn đề là chúng ta chưa bước vào chủ nghĩa xã hội,” ông tiếp tục. “Chúng ta còn lâu mới đạt được sự thành thạo về các phương pháp điều chỉnh có kế hoạch. Chúng ta chỉ đang thực hiện giả thuyết thô đầu tiên, thực hiện nó một cách kém cỏi, và vẫn còn sờ soạng trong bóng tối. Khủng hoảng không chỉ có thể xảy ra, mà còn là điều không thể tránh khỏi.”[42]

Vấn đề nằm ở cách tiếp cận quan liêu đối với kế hoạch của Liên Xô, phát sinh từ việc tước quyền điều hành xã hội của giai cấp công nhân; từ bản chất biến dạng của nhà nước công nhân.

Trotsky giải thích rằng lập kế hoạch là một môn khoa học cần được thử nghiệm. “Không thể tạo ra một hệ thống kinh tế hài hòa hoàn chỉnh ngay được”, ông cảnh báo. “Chỉ có sự điều chỉnh liên tục của kế hoạch trong quá trình thực hiện, tái thiết một phần và toàn bộ kế hoạch mới có thể đảm bảo hiệu quả kinh tế”.

Ông nhấn mạnh rằng không có “trí tuệ toàn năng” nào có thể “vẽ ra một kế hoạch kinh tế hoàn hảo và toàn diện, bắt đầu từ số mẫu lúa mì cho đến tận chiếc cúc áo vest”.

Tuy nhiên, đây lại chính xác là những gì mà bộ máy quan liêu đang cố gắng thực hiện, tính toán các cân đối vật lý – đầu vào và đầu ra cho tất cả các vật liệu chính và các ngành công nghiệp nhà nước – từ trên xuống, trong sự thoải mái của các văn phòng Moscow của họ, với rất ít sự liên hệ với thực tế. Thay vào đó, Trotsky tiếp tục:

“Những thành phần nhiều vô kể trong nền kinh tế, nhà nước và tư nhân, tập thể và cá nhân, phải thông báo về nhu cầu và sức mua tương đối của họ không chỉ thông qua các quyết định thống kê của ủy ban kế hoạch mà còn thông qua áp lực trực tiếp của cung và cầu.”

Trong thời kỳ chuyển tiếp, Trotsky nhấn mạnh: “Kế hoạch được kiểm tra và ở mức độ đáng kể, được thực hiện thông qua thị trường… Các bản thiết kế do các bộ phận lập ra phải chứng minh hiệu quả kinh tế của chúng thông qua tính toán thương mại.”[43]

Nói cách khác, nhà nước công nhân sẽ cần sử dụng tín hiệu giá để kiểm tra, xác nhận và cập nhật bất kỳ kế hoạch kinh tế nào; để xác định các điểm nghẽn và tình trạng thiếu hụt; và với điều này, để phân bổ nguồn lực và đầu tư một cách có ý thức nhằm mang lại sự phát triển hài hòa và tăng trưởng cân bằng.

Một chế độ vô sản lành mạnh sẽ không phải là nạn nhân bất lực, thiếu hiểu biết của quy luật giá trị, mà sẽ sử dụng quy luật này như một trong nhiều công cụ để lập kế hoạch sản xuất và phân phối. “Tiền tệ vốn là phương tiện hạch toán kinh tế do chủ nghĩa tư bản phát triển sẽ không bị vứt bỏ,” Trotsky lưu ý, “mà được xã hội hóa”.[44]

Ông nhấn mạnh rằng điều này sẽ đòi hỏi một loại tiền tệ ổn định. Nhưng bộ máy quan liêu đang làm suy yếu khả năng đồng chervonets (một loại tiền tệ được lưu hành trong thời kì NEP) trong việc hoạt động như một thước đo tiền tệ đáng tin cậy bằng cách dùng đến máy in để bù lấp lỗ hổng trong ngân sách.

Giống như những người Bolshevik cực tả đã chủ quan trước mối đe dọa của lạm phát vào đầu những năm 1920, những người theo chủ nghĩa Stalin cũng đã nhầm lẫn một cách đáng tiếc khi tưởng tượng rằng họ đã thoát khỏi sự chi phối của quy luật giá trị và lưu thông tiền tệ.

Việc xây dựng một kế hoạch kinh tế trên một đồng valuta đang trượt giá cũng giống như việc tạo ra một bản thiết kế của một cỗ máy với một chiếc la bàn lỏng lẻo và một chiếc thước cong,” Trotsky tuyên bố. “Đây chính xác là những gì đang diễn ra. Việc lạm phát đồng chervonets là một trong những hậu quả tai hại nhất – và cũng là công cụ – của sự mất tổ chức mang tính quan liêu của nền kinh tế Liên Xô.”[45]

Trotsky nhận xét rằng lập kế hoạch không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật – một nghệ thuật phải học được thông qua kinh nghiệm.

“Nghệ thuật lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa không phải từ trên trời rơi xuống, cũng chẳng phải tự nhiên có được nhờ giành được quyền lực”, ông phác họa. “Nghệ thuật này chỉ có thể được thành thạo thông qua đấu tranh, từng bước một – không phải bởi một số ít, mà là hàng triệu người, như một phần cấu thành của nền kinh tế và văn hóa mới”.[46]

Điều này đặt ra câu hỏi sống còn đối với nền cộng hòa xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở bất cứ đâu: các công cụ khoa học để lập kế hoạch – chẳng hạn như dự báo và thống kê, cân đối nguồn nguyên liệu và tín hiệu giá cả – cần được hậu thuẫn bằng một nền dân chủ công nhân lành mạnh.

Có nghĩa là phải thu thập thông tin về sản xuất và tiêu dùng từ các ủy ban tại công sở, công đoàn và đại diện được bầu phải liên tục kiểm tra các kế hoạch so với thực tế và thực hiện những thay đổi cần thiết; cũng như lôi kéo tầng lớp công nhân có tổ chức tham gia vào việc điều hành xã hội.

Trotsky kết luận: “Chỉ khi có sự tương tác giữa ba yếu tố – kế hoạch nhà nước, thị trường và nền dân chủ Xô Viết – thì mới có thể đạt được hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế của thời kỳ chuyển tiếp”.

“Chỉ có như vậy mới có thể đảm bảo, nhiệm vụ vốn không phải là việc khắc phục hoàn toàn những mâu thuẫn và sự mất cân đối trong vòng vài năm (điều này là không tưởng!), mà là việc giảm thiểu chúng, và thông qua đó củng cố cơ sở vật chất của chế độ chuyên chính vô sản cho đến thời điểm một cuộc cách mạng thắng lợi mới sẽ mở rộng phạm vi của kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa và sẽ tái thiết hệ thống.”[47]

Đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản

Trong khi bộ máy Stalinist tàn bạo đang hành quyết và bỏ tù những người cộng sản, tước đoạt các quyền dân chủ và bóp nghẹt Cách mạng Tây Ban Nha, nó lại ngạo nghễ tuyên bố rằng: “Ừ thì chúng ta vẫn chưa đạt được chủ nghĩa cộng sản… nhưng ta đã đạt được chủ nghĩa xã hội – tức là giai đoạn thấp nhất của chủ nghĩa cộng sản.”

Trotsky đã đưa ra một nhận xét cay đắng về tuyên bố này như sau:

“Nếu Marx gọi xã hội được hình thành trên cơ sở xã hội hóa lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản tiên tiến nhất trong thời đại của ông là giai đoạn thấp nhất của chủ nghĩa cộng sản, thì rõ ràng cách trường hợp này không áp dụng cho Liên Xô - nơi tới đến nay vẫn tụt hậu hơn đáng kể về kỹ thuật và văn hóa so với các nước tư bản chủ nghĩa.”

Ông tiếp tục: “Sẽ đúng hơn khi nói rằng chế độ Xô Viết hiện tại với tất cả sự mâu thuẫn của nó không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa, mà là chế độ chuẩn bị chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.”[48]

Năm 1959, nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Kruschev đã lại một lần nữa nhắc lại lời khẳng định của những người theo chủ nghĩa Stalin. Sau khi hoàn thành giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, ông tuyên bố, Liên Xô đã sẵn sàng thực hiện “bước đầu tiên vào chủ nghĩa cộng sản”.[49]

Nhưng bất chấp những tuyên bố như vậy, mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản chưa bao giờ đạt được ở Liên Xô dưới bất kỳ hình thức nào.

Liên Xô vẫn luôn là chế độ chuyển tiếp giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Và bản chất của bất kỳ chế độ nào như vậy đều chứa đựng tiềm năng không chỉ cho sự tiến bộ, hướng tới chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự thoái lui, hướng tới sự trở lại hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản.

Trong nhiều thập kỷ, trên cơ sở của nền kinh tế kế hoạch hóa, đã có những tiến bộ đáng kinh ngạc về mặt công nghiệp và giáo dục. Tuy nhiên, đồng thời, bộ máy quan liêu đã phát triển thành một khối u nhọt ký sinh vào nhân dân Liên Xô, dần dần hút cạn mọi sức sống ra khỏi nền kinh tế và xã hội.

Sau cùng cùng, chính sách này đã chẳng dẫn con người ta đến chủ nghĩa cộng sản, mà dẫn tới sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. Khi đó cũng như bây giờ, cách duy nhất để tiến lên chủ nghĩa cộng sản là thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa quốc tế.

Ngày nay, trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất trên toàn thế giới, những điều kiện cho chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ thuận lợi hơn thế.

Quá trình lập kế hoạch sản xuất sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nhờ vào công nghệ và kỹ thuật đã được phát triển dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Hơn nữa, quy mô, sức mạnh và trình độ văn hóa của giai cấp công nhân – ở tất cả các quốc gia – cao hơn nhiều so với giai cấp công nhân tồn tại cách đây một thế kỷ ở Nga. Người lao động được trang bị nhiều hơn đủ kỹ năng và kiến ​​thức cần thiết để điều hành nền kinh tế.

Sau cuộc cách mạng ở các nước tư bản tiên tiến, với khoa học, đổi mới và công nghiệp mới nhất, bước nhảy vọt lên giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản có thể diễn ra trong vòng một thế hệ.

Tuy nhiên, ngay cả ở thời điểm này, các quy luật kinh tế sẽ không biến mất hoàn toàn. Quy luật giá trị trước tiên sẽ bị khuất phục, và sau đó bị giải thể hoàn toàn. Nhưng chúng ta vẫn là những sinh vật của thế giới vật chất. Vẫn sẽ có những quy luật khách quan chi phối xã hội.

Tự do thực sự dưới chủ nghĩa cộng sản sẽ không đến từ việc tưởng tượng rằng chúng ta được tự do khỏi những thế lực như vậy, mà đến từ việc hiểu được sự tất yếu – và khai thác kiến ​​thức này để mang lại lợi thế cho chúng ta, nhằm biến đổi thế giới xung quanh.

Trong giai đoạn đầu “Kiểm soát và lập kế hoạch sẽ diễn ra trong giới hạn nhất định,” Ted Grant giải thích. “Những giới hạn này sẽ được quy định bởi trình độ kỹ thuật khi trật tự xã hội mới tiếp quản. Sự chuyển đổi từ một xã hội nơi người ta phải đảm bảo các nhu cầu cơ bản tới một xã hội dồi dào và giàu có không thể diễn ra chỉ sau một đêm.”[50]

Marx nhấn mạnh rằng “Lãnh địa tự do thực sự chỉ bắt đầu khi lao động không còn bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất cơ bản hay những áp lực bên ngoài”.

“Giống như người man rợ phải đấu tranh với thiên nhiên để thỏa mãn nhu cầu của mình, để duy trì và tái tạo cuộc sống, con người văn minh cũng buộc phải như vậy, và họ phải làm như vậy trong mọi hình thái xã hội và trong mọi phương thức sản xuất có thể có.”[51]

Marx kết luận:

“Trong một giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản… sau khi lao động không chỉ trở thành phương tiện sống mà còn là nhu cầu hàng đầu của cuộc sống; sau khi lực lượng sản xuất cũng tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân, và tất cả các nguồn của cải công cộng đều trở nên dồi dào hơn – chỉ khi đó, nhân loại mới có thể vượt qua được đường chân trời hẹp hòi của tư hữu tư sản và xã hội ghi tạc trên biểu ngữ của mình câu khẩu hiệu: Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu!”[52]

Đây chính là tương lai cộng sản, chúng ta phải tổ chức và đấu tranh vì nó.

References

[1] L Trotsky, The Revolution Betrayed, Wellred Books, 2015, pg 3

[2] L Trotsky, History of the Russian Revolution, Vol. 3, Wellred Books, 2022, pg 1168

[3] V I Lenin, State and Revolution, Wellred Books, 2019, pg 85-86

[4] K Marx, F Engels, “The Communist Manifesto”, Classics of Marxism, Vol. 1, Wellred Books, 2013, pg 21-22

[5] K Marx, Critique of the Gotha Programme, Foreign Languages Press, 2021, pg 15

[6] V I Lenin, ‘Left-Wing’ childishness and petty-bourgeois mentality, Progress Publishers, 1968, pg 18

[7] V I Lenin, State and Revolution, Wellred Books, 2019, pg 67

[8] V I Lenin, ‘Left-Wing’ childishness and petty-bourgeois mentality, Progress Publishers, 1968, pg 19

[9] L Trotsky, The Revolution Betrayed, Wellred Books, 2015, pg 1

[10] S M Efremov, The role of inflation in Soviet history: Prices, living standards, and political change, East Tennessee State University, 2012, pg 17

[11] V I Lenin, “Extraordinary Seventh Congress of the R.C.P.(B.)”, Lenin Collected Works, Vol. 27, Progress Publishers, 1965, pg 98

[12] E H Carr, The Bolshevik Revolution, 1917-1923, Vol. 2, Penguin Books, 1952, pg 76

[13] ibid., pg 78

[14] ibid., pg 80

[15] A Nove, An economic history of the USSR, 1917-1991, Penguin Books, 1992, pg 46

[16] V I Lenin, ‘Left-Wing’ childishness and petty-bourgeois mentality, Progress Publishers, 1968, pg 13

[17] ibid.

[18] R W Davies, M Harrison, S G Wheatcroft, The economic transformation of the Soviet Union, 1913-1945, Cambridge University Press, 1994, pg 135

[19] V Serge, Year One of the Russian Revolution, Haymarket Books, 2015, pg 242

[20] E H Carr, The Bolshevik Revolution, 1917-1923, Vol. 2, Penguin Books, 1952, pg 178

[21] ibid., pg 186

[22] ibid., pg 242

[23] V Serge, Year One of the Russian Revolution, Haymarket Books, 2015, pg 213

[24] S M Efremov, The role of inflation in Soviet history: Prices, living standards, and political change, East Tennessee State University, 2012, pg 17

[25] L Trotsky, The Revolution Betrayed, Wellred Books, 2015, pg 46

[26] E H Carr, The Bolshevik Revolution, 1917-1923, Vol. 2, Penguin Books, 1952, pg 344

[27] S M Efremov, The role of inflation in Soviet history: Prices, living standards, and political change, East Tennessee State University, 2012, pg 17

[28] E H Carr, The Bolshevik Revolution, 1917-1923, Vol. 2, Penguin Books, 1952, pg 321-22

[29] L Trotsky, The First Five Years of the Communist International, Wellred Books, 2020, pg 650

[30] L Trotsky, The Revolution Betrayed, Wellred Books, 2015, pg 79

[31] A Nove, An economic history of the USSR, 1917-1991, Penguin Books, 1992, pg 121

[32] E Preobrazhensky, The New Economics, Oxford University Press, 1965, pg 172

[33] ibid., pg 147

[34] ibid., pg 145

[35] T Grant, “Against the Theory of State Capitalism”, The Unbroken Thread, Fortress Books, 1989, pg 210

[36] E H Carr, R W Davies, Foundations of a planned economy, 1926-1929, Vol. 1, Macmillan Press, 1969, pg 26

[37] Trotsky Archives, No. T-1594

[38] R W Davies, M Harrison, S G Wheatcroft, The economic transformation of the Soviet Union, 1913-1945, Cambridge University Press, 1994, pg 106

[39] ibid., pg 44-45

[40] A Katz, The Politics of Economic Reform in the Soviet Union, Praeger, 1978, pg 15

[41] T Grant, “Against the Theory of State Capitalism”, The Unbroken Thread, Fortress Books, 1989, pg 209

[42] L Trotsky, “The Soviet economy in danger”, Writings of Leon Trotsky (1932), Pathfinder, 1973, pg 278

[43] ibid.

[44] L Trotsky, “The Degeneration of Theory and the Theory of Degeneration: Problems of the Soviet Regime”, Writings of Leon Trotsky (1932-33), Pathfinder Press, 1972, pg 223

[45] ibid.

[46] L Trotsky, “The Soviet economy in danger”, Writings of Leon Trotsky (1932), Pathfinder Press, 1973, pg 260

[47] ibid.

[48] L Trotsky, The Revolution Betrayed, Wellred Books, 2015, pg 33, emphasis in original

[49] A S Balinky, “The proclaimed emergence of communism in the USSR”, Social Research, Vol. 28, No. 3, 1961, pg 261–82

[50] T Grant, “Against the Theory of State Capitalism”, The Unbroken Thread, Fortress Books, 1989, pg 218-219

[51] K Marx, Capital, Vol. 3, Penguin Classics, 1991, pg 958-959

[52] K Marx, Critique of the Gotha Programme, Foreign Languages Press, 2021, pg 16

Join us

If you want more information about joining the RCI, fill in this form. We will get back to you as soon as possible.