Sự thất thế của phụ nữ: Tư hữu, áp bức và chế độ gia đình Share TweetNhư chúng ta đã biết, sự áp bức phụ nữ và nguồn gốc của gia đình là vấn đề cốt yếu mà bất kỳ ai muốn tranh đấu vì một xã hội tốt đẹp hơn đều phải đối mặt. Rất nhiều phụ nữ vẫn đang bị lạm dụng và bị quấy rối hàng ngày. Ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn còn vô vàn phụ nữ phải sống như nô lệ. Ngày nay, vẫn có hàng triệu trẻ em gái và phụ nữ đã bị buộc phải cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, một trong những phương pháp dã man nhất được sử dụng để kiểm soát tình dục của phụ nữ, trong khi hàng triệu phụ nữ trẻ bị buôn bán để bóc lột tình dục. Bạo lực đối với phụ nữ vẫn xảy ra hàng ngày và hiện tượng giết hại phụ nữ vẫn đang tiếp diễn.Đây là biểu hiện cho sự man rợ của xã hội mà chúng ta đang sống ngày nay, và dù không thể chối bỏ rằng đã có một số thành tựu quan trọng, ta vẫn phải hiểu rằng còn rất xa nữa mới đạt được sự bình đẳng thực sự và toàn diện giữa hai giới nam và nữ. Ta phải tự hỏi mình câu hỏi sau: Liệu vị thế hiện tại giữa người nữ và người nam có phải là sự sắp đặt vốn có của tự nhiên? Ta thường được dạy rằng đúng như vậy; rằng gia đình 'hạt nhân' một vợ một chồng, với hình tượng người cha thống trị và đầy quyền lực, luôn tồn tại và đàn ông có bản chất thống soát đối với phụ nữ. Nhưng liệu đây có phải là sự thật?Marx và Engels đã trả lời câu hỏi này bằng một phép phủ định vững chắc. Engels đặc biệt đã phát triển cách tiếp cận của chủ nghĩa Marx đối với sự áp bức phụ nữ trong tác phẩm nổi tiếng của ông, "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" (The Origin of the Family, Private Property and the State), xuất bản năm 1884. Theo đó, ông nghiên cứu kĩ lưỡng các phát hiện của Lewis Henry Morgan trong tác phẩm "Xã hội cổ đại (1877)" (Ancient Society), với lập luận trung tâm: “Ý tưởng về gia đình được phát triển qua các giai đoạn kế thừa lẫn nhau”, trong đó gia đình một vợ một chồng hiện đại chỉ là “hình thức cuối cùng trong hàng loạt hình thức khác của nó”.[1] Ông giải thích rằng điều này có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của các kỹ thuật, công cụ và vũ khí mới, hay có thể hiểu là lực lượng sản xuất.Morgan đã tiếp cận vấn đề này thông qua phương pháp duy vật vững vàng và ban đầu ông đã có ảnh hưởng lớn đối với các nhà nhân học cùng thời. Nhưng cuối cùng những ý tưởng của ông bị coi là mối đe dọa đối với sự ổn định của xã hội tư sản, và điều này càng trở nên rõ rệt sau khi Engels sử dụng những phát hiện của mình để xây dựng quan điểm của chủ nghĩa Marx về câu hỏi này.Vào thế kỷ 20, các ý tưởng của Morgan và Engels đã bị tấn công dữ dội bởi các nhà nhân học bảo thủ, chẳng hạn như Bronisław Malinowski, người đã thẳng thắn tuyên bố:“Một khi ta đi đến chỗ loại bỏ gia đình hạt nhân - vốn là một yếu tố then chốt của xã hội, ta sẽ phải đối mặt với một thảm họa xã hội mà những biến động chính trị của cách mạng Pháp và những thay đổi kinh tế của chủ nghĩa Bolshevik bỗng trở nên không đáng kể.”[2]Những người khác, chẳng hạn như trường phái nhân học Boas, đã bác bỏ lý thuyết về các giai đoạn phát triển của lịch sử, đại diện bởi “thuyết tất định” và “thuyết tiến hóa” (cho rằng lịch sử là một tiến trình tuyến tính, tiến hóa dựa trên những thay đổi về mặt vật chất của xã hội ấy - ND) để ủng hộ cách tiếp cận duy tâm (nhấn mạnh vào sự tương đối văn hóa, cho rằng mỗi xã hội có hướng phát triển riêng biệt dựa trên điều kiện lịch sử và môi trường riêng, nên thay vì tiếp cận xã hội một cách tổng thể thì tiếp cận nghiên cứu các xã hội một cách riêng rẽ, thiếu sự liên quan tới sự vận động tổng thể - ND). Xu hướng này vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lĩnh vực này ngày nay.Không có gì là đáng ngạc nhiên khi Morgan bị hạn chế bởi trình độ kiến thức khoa học có được vào giữa thế kỷ 19, và một số ý tưởng của ông đã đã trở nên khá lạc hậu. Nhưng một câu hỏi đáng lưu tâm hơn nhiều là: Ý tưởng nào của ông là đúng? Và điều này cho chúng ta biết điều gì về sự phát triển của gia đình và theo đó là tương lai khả dĩ của nó?Những câu hỏi này có ý nghĩa quyết định đối với cuộc đấu tranh vì một thế giới tốt đẹp hơn. Và cuối cùng, chúng chỉ có thể được giải đáp thông qua cách tiếp cận khoa học thực sự về lịch sử loài người.Phương pháp duy vậtMorgan đã tự mình nghiên cứu các hình thức xã hội sơ khai và thực sự nỗ lực tìm hiểu các cấu trúc xã hội bên trong của chúng cũng như nền tảng cấu thành các cấu trúc này - giống như cách mà Darwin đã cống hiến hết mình cho việc nghiên cứu về tiến hóa sinh học.Morgan nhận thấy rằng, thông qua việc xem xét các xã hội đương đại ở các mức độ phát triển khác nhau và liên hệ mối tương quan giữa xã hội này với xã hội khác, người ta có thể xây dựng lại bức tranh về sự phát triển tổng thể của xã hội loài người. Khi làm như vậy, ông đã phát triển một lý thuyết về tiến hóa xã hội: rằng các xã hội sẽ trải qua các giai đoạn phát triển tương tự nhau và có một mô hình chung cho quá trình đó, từ các hình thức kém phát triển đến các hình thức phát triển hơn.Morgan hiểu rằng các thể chế xã hội ra đời phù hợp với sự phát triển cụ thể của các điều kiện xã hội. Khi làm như vậy, ông đã vô thức rút ra những kết luận rất giống với kết luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp được Marx và Engels phát triển. Có một ví dụ rõ ràng về phương pháp này được thể hiện từ tuyên bố của Morgan:"Thật vậy, loài người bắt đầu phát triển từ cấp độ thấp và và dần tịnh tiến tới cấp độ cao hơn, điều này được thể hiện thông qua các phương thức sinh tồn (aka phương thức sản xuất - ND) liên tục tiến hóa và kế thừa của họ. Sự thống trị của loài người trên Trái đất hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố này. Con người là sinh vật duy nhất giành được quyền kiểm soát tuyệt đối đối với việc sản xuất lương thực, điều mà vốn thuở ban đầu loài người cũng đã chẳng hơn những loài vật khác. Nếu không mở rộng cơ sở sinh tồn (phát triển lực lượng sản xuất, cải tiến phương thức sản xuất - ND), loài người cũng sẽ không thể sinh sôi nảy nở từ nơi này sang nơi khác mà không phụ thuộc vào nguồn thực phẩm sẵn có từ thiên nhiên (do săn bắt hái lượm mà ra - ND)." ; và cuối cùng, nếu không có được sự kiểm soát tuyệt đối cả về chủng loại lẫn sản lượng lương thực, loài người chẳng bao giờ có thể sinh sôi thành các quốc gia đông đúc như ngày nay. Do vậy, rất có thể các giai đoạn phát triển theo hướng tiến bộ hơn của loài người đã phụ thuộc, dù ít dù nhiều thì đều liên quan trực tiếp tới việc mở rộng nguồn sinh kế." [3]Cách tiếp cận tiến hóa của Morgan về sự phát triển của xã hội và mối quan hệ của nó với sự phát triển của lực lượng sản xuất, rất đáng hoan nghênh. Ông chia xã hội thành các giai đoạn khác nhau, “mông muội, man rợ và văn minh”, trong đó giai đoạn mông muội trải dài qua ba thời kỳ Hạ, Trung và Thượng, thời kì Hạ là giai đoạn kém phát triển nhất. Morgan giải thích rằng với các công cụ và kỹ thuật mới, chẳng hạn như câu cá hoặc cung tên, nhân loại sẽ chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Tương tự, ông chia “man rợ” thành ba giai đoạn riêng biệt, như khi còn người đã thành thạo việc làm gốm; khi họ học cách thuần hóa động vật, trồng trọt, phát triển hệ thống tưới tiêu thời kỳ đầu, làm gạch, v.v.; và cuối cùng là thành thạo việc sử dụng kim loại, chẳng hạn như đồng và sắt.Những thuật ngữ mà ông ta sử dụng, “man rợ, man rợ và văn minh”, có hàm ý hơi xúc phạm, nhưng chúng ta không nên nhìn nhận cách Morgan sử dụng những từ này theo cách tương tự. Điều khiến chúng ta quan tâm ở đây là bản chất của ý nghĩa của các thuật ngữ này trong văn cảnh của nó chứ không phải hàm ý của những từ đó đặt trong bối cảnh xã hội ngày nay. Tương tự như vậy, dòng thời gian phát triển của ông không còn tương ứng chính xác với những gì mà hơn 150 năm nghiên cứu sâu hơn về sau này đã xác lập, nhưng nhìn chung, ý tưởng về loài người phát triển qua các giai đoạn về cơ bản là đúng.Xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, về cơ bản dựa trên các vật liệu được sử dụng để sản xuất công cụ, thường được các nhà khảo cổ học ngày nay thừa nhận, khi họ đặt cho các giai đoạn lịch sử những cái tên như Thời kỳ đồ đá, Thời đại đồ đồng và Thời đại đồ sắt. Thông qua việc phát triển các công cụ, con người đã chuyển từ săn bắn hái lượm sang trồng trọt trong thời kỳ đồ đá mới ("Neolithic" hoặc "New Stone Age"). Sau đó, họ đạt được những tiến bộ về gia công kim loại, đầu tiên là bằng đồng và sau đó là sắt, mở ra tiềm năng phát triển các nền văn minh vĩ đại của thế giới cổ đại. Đây không phải là một quá trình tuyến tính và giống hệt nhau ở tất cả các châu lục trên thế giới. Một phần điều này cũng phụ thuộc vào nguồn lực sẵn có của địa phương. Tuy nhiên, đây là mô hình phổ biến quan sát được ở nhiều xã hội cổ đại.Chính cách tiếp cận duy vật này đã thu hút sự chú ý của Marx và Engels. Như Engels đã giải thích vào năm 1884:"Morgan, theo cách riêng của ông, đã tái định nghĩa quan niệm duy vật lịch sử ở Mỹ, vốn được Marx phát hiện cách đây bốn mươi năm, và khi ông so sánh chủ nghĩa man rợ và nền văn minh, về cơ bản, quan điểm đó đã đưa ông đến những kết luận giống Marx."[4]Trên thực tế, Marx đã nghiên cứu tác phẩm "Xã hội cổ đại" của Morgan cùng với các tác phẩm của các nhà nhân học khác cùng thời và ông đã viết những ghi chú sâu sắc với mục đích tạo ra một văn bản với cách giải thích của riêng ông về những phát hiện mới nhất. Thật không may, Marx đã qua đời trước khi ông có thể hoàn thành tác phẩm này, nhưng những ghi chép của ông [5] đã được Engels sử dụng để tạo ra tác phẩm kinh điển (Tác phẩm "Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước" - ND) vào năm 1884 ngay sau khi Marx qua đời. Do đó, công trình của Engels về nguồn gốc gia đình có thể được coi là công trình chung của hai nhà sáng lập chủ nghĩa Mác.Quan hệ cận huyết và quần hôn ở người nguyên thủyMorgan khẳng định rằng xã hội loài người sơ khai bắt đầu với cái mà ông gọi là gia đình “quan hệ cận huyết”, tức là sự sinh sản giữa những người họ hàng gần gũi. Ông giải thích rằng chỉ sau này, qua nhiều giai đoạn khác nhau, việc giao phối giữa các cá thể cận huyết mới bị loại bỏ và một số luật cấm nhất định mới được đưa ra.Khi Morgan lần đầu tiên nêu ra ý tưởng này, nó đã bị phản bác một cách mạnh mẽ và vẫn còn là định kiến tồn tại trong nhiều cộng đồng học thuật. Rốt cuộc, điều gì có thể xa lạ hơn với tập tục xã hội của thời đại chúng ta? Vì ý tưởng này vốn rất kì cục khi được đưa ra vào thời đại đó, nên một số nhà xã hội học, chẳng hạn như Westermarck đã cho rằng có một bản năng tự nhiên của con người là tránh cận huyết.Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đã ủng hộ quan điểm cho rằng cận huyết tồn tại ở những người nguyên thủy, chứng tỏ quan niệm của chúng ta về gia đình đã thay đổi nhiều như thế nào qua hàng thiên niên kỷ. Một bài báo xuất bản năm 2018 đã kết luận rằng tỷ lệ dị tật tương đối cao ở các bộ xương Kỷ băng hà rất có thể là do cận huyết, lý thuyết này được ủng hộ bởi mức độ đa dạng di truyền thấp được tìm thấy ở những bộ xương này.[6]Nhưng điều này rõ ràng đã không còn đúng nữa, và một nghiên cứu thú vị được thực hiện tại Đại học Cambridge báo cáo rằng việc phân tích hài cốt của con người tại địa điểm Sunghir, ở Siberia, cho thấy:"Con người nguyên thủy dường như đã nhận ra sự nguy hiểm của cận huyết ít nhất 34.000 năm trước và đã bắt đầu phát triển mạng lưới giao phối và xã hội phức tạp để tránh điều đó […]" [7]Điều này rất quan trọng vì nó chứng tỏ rằng quan hệ tình dục giữa con người với nhau đã thay đổi. Ở một giai đoạn nhất định, gia đình nhân loại đã phát triển, với những mối quan hệ mới xuất hiện từ mối quan hệ cũ. Quả thực, “mạng lưới giao phối và xã hội phức tạp” thậm chí có thể đại diện cho những hình thức sớm nhất của cái mà sau này được gọi là “thị tộc”.Morgan nhìn thấy bốn giai đoạn phát triển tiếp theo của gia đình dựa trên việc cấm loạn luân, trong đó nam và nữ không được phép giao phối với các thành viên trong thị tộc ("clan" hoặc "gens" - theo tiếng Latin) của chính họ. Nói cách khác, ta đã bắt đầu chứng kiến sự xuất hiện của các điều luật cấm giao phối trong một nhóm nhất định.Ông đưa ra giả thuyết rằng, theo hệ thống này, “hôn nhân tập thể” là chuẩn mực. Phải chăng điều này có nghĩa là tất cả đàn ông của nhóm này đều có tất cả phụ nữ của nhóm khác làm “vợ” cùng một lúc? Không nhất thiết phải như vậy. Người ta nhận thấy rằng các xã hội ở đó “hôn nhân tập thể” liên quan một cách mật thiết đến một hình thức “liên minh” giữa các nhóm, trong đó các cá nhân trong một thị tộc chỉ có thể lựa chọn bạn đời của mình từ trong thị tộc kia.Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là bản chất tương đối lăng nhăng của việc giao phối trong thời kỳ đầu của xã hội loài người. Ngược lại với quan niệm truyền thống về gia đình, nam giới và phụ nữ không bị ràng buộc lâu dài với một người bạn đời, có thể tự do phá vỡ mối quan hệ và tìm kiếm người bạn đời khác.Một nền đạo đức hàng nghìn năm phát triển dưới áp lực của xã hội có giai cấp, nơi phụ nữ được coi là tài sản của đàn ông và phụ nữ phải chung thủy với một người đàn ông suốt đời, đã để lại trong ý thức tập thể ý tưởng rằng đây là một trạng thái tự nhiên và phổ biến. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng “quần hôn” - theo nghĩa là cá nhân có quyền tự do lựa chọn bạn đời, khi nào và trong bao lâu - đã hiện diện rõ ràng trong các xã hội loài người sơ khai.Như Engels giải thích: “Vậy thì quan hệ tình dục bừa bãi khi ấy có ý nghĩa gì (trong đời sống thuở hồng hoang - ND)? Khi những hạn chế hoặc cấm kị ở thời điểm hiện tại hoặc trước đó vốn lại không tồn tại từ thuở ấy.” Nhưng sau đó ông bổ sung, “Điều này hiển nhiên không có nghĩa rằng tình trạng lăng nhăng, quan hệ bừa bãi như vậy diễn ra hàng ngày và liên tục. Việc ghép đôi theo các cặp trong một khoảng thời gian không phải là không xảy ra; trên thực tế, ngay cả trong hôn nhân tập thể, hình thức này vẫn là chiếm đa số trong các trường hợp.”[8]Tuy nhiên, sự tồn tại của việc "ghép đôi”, ghép cặp trong bối cảnh lớn hơn phạm vi thị tộc (hoặc “gens" - từ Latin) không nên được coi là “hôn nhân” như chúng ta hằng biết. Morgan nhấn mạnh rằng “nó được hình thành dựa trên việc kết đôi một người nam với một người nữ dưới hình thức hôn nhân, nhưng không có sự chung sống độc quyền […] Việc ly hôn hay ly thân là do cả hai vợ chồng lựa chọn”. [9] (Nhấn mạnh). Điều này có nghĩa là cả nam và nữ không bị ràng buộc vĩnh viễn với nhau trong hôn nhân như chúng ta này nay.Dù vậy, hình thức kết đôi theo cặp đã trở thành nền tảng cho gia đình một vợ một chồng sau này, mà theo Morgan: “được xác lập dựa trên cuộc hôn nhân của một người đàn ông với một người phụ nữ, với sự chung sống độc quyền; ở đó chung sống độc quyền trở thành bản chất của cuộc hôn nhân. Đó trước hết là gia đình của xã hội văn minh, và do đó về cơ bản là chỉ dấu của hiện đại.”[10] Nhưng sự xuất hiện của loại hình gia đình hiện đại này đòi hỏi sự lật đổ hoàn toàn của trật tự hiện có.Dòng dõi mẫu hệPhát hiện của Morgan, về vị trí không hề kém cạnh của phụ nữ so với đàn ông ở những giai đoạn trước khi có sự xuất hiện của (chế độ) gia đình phụ quyền một vợ một chồng, được cho là đã có đóng góp to lớn nhất cho sự hiểu biết của chúng ta về xã hội loài người.Không chỉ có lý luận suông, Morgan đã tiến hành thực địa một cách cụ thể và thực tế. Nhà nhân học này đã sinh sống cùng với cộng đồng người Iroquois (cộng đồng dân tộc bản địa Bắc Mỹ - ND) một thời gian và nghiên cứu họ một cách kỹ lưỡng. Ông cũng nghiên cứu về các cộng đồng người bản địa Châu Mỹ khác, đồng thời thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác về con người ở giai đoạn phát triển sơ khai của nhân loại.Ông nhận thấy rằng, trong cộng đồng người Iroquois, phụ nữ có địa vị bình đẳng hơn nhiều so với ở thế giới "văn minh". Engels, dựa trên những nghiên cứu của mình, đã bình chú: "Tất cả đều bình đẳng và tự do - bao gồm cả phũ nữ."[11] Nhưng tại sao lại như vậy?Morgan kết luận rằng, trong thời kỳ trước đó, loài người được tổ chức theo các thị tộc mẫu hệ (matrilineal clans), trong đó dòng dõi được truy nguyên theo họ của người mẹ, không phải gia đình phụ quyền (theo nghĩa đen là quyền thống trị của người cha) vốn sinh sau đẻ muộn cùng với sự xuất hiện của tài sản tư hữu và xã hội giai cấp.Đã có nhiều tranh luận về việc liệu "chế độ mẫu quyền" (matriarchy) có đã từng tồn tại hay không, nhưng đó là cuộc tranh luận sai lầm và gây hiểu nhầm. Chế độ mẫu quyền ngụ ý là sự cai trị của phụ nữ, nhưng thứ mà Morgan nhấn mạnh là mẫu hệ (matrilineality), tức là truy nguyên theo dòng dõi của người mẹ trong thời kỳ đầu của xã hội loài người, do không có sự phối ngẫu nghiêm ngặt và lâu dài ổn định đồng nghĩa với việc không thể có cách nào xác định được chắc chắn người cha là ai. Chế độ mẫu hệ không có nghĩa là người đàn ông không có vai trò nào hoặc có vai trò kém quan trọng hơn người phụ nữ.Có rất nhiều nỗ lực nhằm vào việc phủ nhận chế độ mẫu hệ. Đó là bởi vì tất cả lịch sử được viết ra, bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên, đều đến từ các nền văn minh phụ quyền và có giai cấp. Do vậy, không khó để nhận biết được tư tưởng "đàn ông luôn luôn thống trị phụ nữ" xuất phát từ đâu mà ra. Tuy nhiên, những bằng chứng sống về xã hội mẫu hệ ngày nay đã ủng hộ cho lý thuyết của Morgan.Tại tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên của Trung Quốc, chúng ta có người Ma Thoa (Mosuo), nơi dòng dõi vẫn đang được truy nguyên theo người phụ nữ trong gia tộc và tài sản được truyền lại cho người con gái. Con cái thuộc về và sinh sống trong gia đình của người mẹ. Đàn ông Ma Thoa có nhiệm vụ nuôi dạy con cái của chị gái và chị họ (một hiện tượng mà Morgan đã mô tả trong các xã hội mẫu hệ mà ông đã nghiên cứu) và họ cũng có trách nhiệm chăn nuôi, đánh bắt cá, tất cả được học hỏi từ chú bác (anh, em trai của mẹ) và những thành viên nam giới lớn tuổi trong gia đình.Người Bribri ở Costa Rica, người Minangkabau ở Tây Sumatra (Indonesia), một số nhóm người Akan ở Ghana, và cả người Khasi ở Ấn Độ vẫn truy nguyên dòng dõi theo họ mẹ. Các xã hội này hoàn toàn không có bất cứ mối liên hệ nào với nhau.Franz Boas, một nhà nhân học có tầm ảnh hưởng, đã ra sức tìm ví dụ về sự chuyển đổi từ chế độ phụ hệ sang chế độ mẫu hệ, nhằm hạ bệ toàn bộ lược đồ của Morgan. Ông này tin rằng mình đã tìm ra ở người Kwakiutl ở Bờ biển Tây Bắc Thái Bình Dương của Châu Mỹ. Tuy nhiên, sau đó ví dụ này được chứng minh là không chính xác. Boas phát hiện ra rằng dòng dõi được truy nguyên qua cả họ của cả đàn ông và phụ nữ, nhưng ông lại bỏ qua việc xã hội ấy đã trải qua những biến động lớn dưới tác động của việc tiếp xúc với người Châu Âu và hệ thống của họ đang sụp đổ bởi những sức ép (bên ngoài).Có thể dễ dàng hình dung việc truy nguyên và thừa kế bất kỳ tài sản nào thông qua dòng dõi của người mẹ sẽ củng cố địa vị của phụ nữ trong xã hội đến nhường nào. Tuy nhiên, có một nhân tố quan trọng trong thời tiền sử cần phải được tính đến: bản chất cực kỳ quân bình của xã hội săn bắn hái lượm nói chung.Cộng sản nguyên thủyChúng ta phải chú ý một điều rằng, mặc dù Morgan không phải một người cộng sản, mà là thành viên của Đảng Cộng hòa Mỹ cũng có xuất thân từ một gia đình tư bản khá giả - vốn luôn tin rằng hệ thống chính trị của Hoa Kỳ là hình thái xã hội cao nhất; ông đã nhiều lần đề cập đến trong cuốn sách Xã hội cổ đại (Ancient Society) của mình một sự thật rằng con người ở thời kỳ sơ khai đã sinh sống theo phương thức cộng sản, tức là không có tài sản tư hữu.Colin Renfrew, một cựu Giáo sư Khảo cổ học tại Đại học Cambridge, đồng thời là thành viên Đảng Bảo thủ trong Quý Tộc Viện 1991-2021 (do vậy, ông này không thể bị cáo buộc là có cảm tình với cộng sản!) đã tuyên bố trong cuốn sách của mình có tên gọi là Tiền sử-Sự hình thành của Tâm trí con người (Prehistory – The making of the Human Mind) như sau:Các xã hội săn bắn và hái lượm, giống như tổ tiên chúng ta thời Trung kỳ Đá cũ, dường như luôn là các xã hội quân bình, khi mà các cá nhân tham gia (vào xã hội) dựa trên cơ sở bình đẳng [...] [12] (Đã nhấn mạnh)Vậy chủ nghĩa quân bình này dựa trên điều gì? Trong các xã hội săn bắn-hái lượm không có sự phân chia thành các giai cấp, không có chủ sở hữu đối với các phương tiện sản xuất, không có sở hữu đất đai. "Tài sản" nhỏ nhoi có thể tồn tại chỉ là những công cụ và vũ khí thô sơ dùng để săn bắt, giết mổ động vật, kiếm ăn và quần áo mặc trên người.Vì không có tài sản tư hữu hay sự phân chia xã hội thành các giai cấp, cho nên không có kẻ bóc lột hay bị bóc lột, và do đó không có bộ máy vũ trang nào đứng trên xã hội. Morgan chỉ ra rằng:"Nhà nước không tồn tại. Các chính thể thời kỳ này về cơ bản là dân chủ, bởi vì các thị tộc (gens), bào tộc (phratry) và bộ lạc (tribe) được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ.Trong mô tả của mình về cộng đồng người Iroquois, ông tuyên bố: "Mỗi hộ gia đình đều thực hành đời sống cộng sản". https://sandbox.cryptpad.info/461fb8bd-cc66-4bbf-8de9-e58cb67a7c0e" />https://cryptpad.fr/components/ckeditor/plugins/widget/images/handle.png);display:none;">[13]Những kẻ bảo vệ quan điểm cho rằng sự tồn tại của giàu-nghèo, bóc lột-bị bóc lột là điều cố nhiên vĩnh cửu - và sự cạnh tranh với nhau bằng mọi thủ đoạn trong xã hội tư bản hiện đại chỉ đơn thuần là "bản chất con người" (nên chúng ta buộc phải chấp nhận điều đó) tỏ ra không thể chấp nhận được ý tưởng về việc con người dành phần lớn thời gian tồn tại sống trong xã hội mà Marx và Engels gọi "cộng sản nguyên thủy" - nơi không có khái niệm về tài sản tư hữu.Như nhà Nhân chủng học người Mỹ Leslie A. White đã viết trong cuốn sách Sự tiến hóa của văn hóa, Sự phát triển của nền văn minh cho tới sự sụp đổ của La Mã (The Evolution of Culture, The Development of Civilization to the Fall of Rome) như sau"[...] lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản đã trở nên đáng sợ tới mức, rõ ràng, các học giả của ba 'trường phái' nhân học đã cảm thấy cần phải ngăn chặn nó. Lowie của trường phái Boas đã nhiều lần công kích lý thuyết này. Malinowski, người dẫn đầu trường phái chức năng luận (Functionalism), đã gắn mác cho lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản 'có lẽ là ngụy biện gây lầm lẫn nhất trong nhân chủng học xã hội' [...] Lowie đã được các học giả Công giáo khen ngợi bởi vì những lời lẽ chỉ trích của ông ta của ông ta tới lý thuyết cộng sản nguyên thủy, và qua đó phản đối học thuyết xã hội chủ nghĩa [...] Có vẻ như đây là một nỗ lực đã được tiến hành để 'làm cho sở hữu tư có thể duy trì sự tồn tại của nó trên thế giới."[14]Tuy nhiên, bất chấp tất cả những lời phản đối,vẫn có nhiều nghiên cứu xác nhận bản chất quân bình của các xã hội săn bắn-hái lượm, nơi phụ nữ hưởng địa vị cao hơn nhiều trong xã hội và được đối xử bình đẳng, chứ không phải như là một thứ tài sản thuộc về đàn ông.15]Một đặc tính quan trọng của con người là xu hướng hợp tác và chia sẻ. Loài người không thể sống sót nếu không có đặc tính đó. Chúng ta không đặc biệt nhanh nhẹn hay mạnh mẽ như các loài động vật khác. Với vai trò như những cá thể biệt lập, trong điều kiện thời bấy giờ, chúng ta - loài người sẽ luôn gặp nguy hiểm nếu bị các loài ăn thịt to lớn tấn công, đồng thời cũng sẽ khó khăn hăn nhiều trong việc kiếm tìm thức ăn. Do đó, sự hợp tác không phải đến từ tinh thần vị tha trừu tượng nào đó, mà là nhu cầu về mặt vật chất. Sự hợp tác không chỉ cần thiết trong săn bắn mà còn cả trong hái lượm.Săn bắn, hái lượm, và chế độ mẫu hệCó vẻ như đã có sự phân công lao động giữa hai giới trong các xã hội săn bắt hái lượm thời tiền sử, mặc dù sự phân công này khác nhau giữa các tộc người và không phải là sự phân công nghiêm ngặt như chúng ta thấy trong các xã hội có giai cấp sau này, ví dụ như xã hội của người Hy Lạp.Đôi khi đàn ông tham gia vào việc hái lượm và phụ nữ giúp săn bắn, như đã được chứng minh qua những khám phá mới đây về việc phụ nữ được chôn cùng vũ khí trong các ngôi mộ của họ. Nhưng nhìn chung, đàn ông có xu hướng đi săn và phụ nữ có xu hướng đi hái lượm. Và không bên nào kém quan trọng hơn bên nào. Trên thực tế, đôi khi đàn ông trở về tay không trong khi việc hái lượm luôn mang về nhà một thứ gì đó. Do đó, sự phân công lao động ở giai đoạn này của xã hội loài người không ngụ ý sự phụ thuộc của phụ nữ vào đàn ông.Trên thực tế, sự phân công lao động tồn tại trong gia đình thực ra có xu hướng củng cố vị thế của phụ nữ trong nhiều trường hợp. Kit Opie và Camilla Power, tác giả của "Grandmothering and Female Coalitions – A Basis for Matrilineal Priority?" (tạm dịch là 'Làm bà và Liên minh Nữ giới - nền tảng cho sự ưu tiên mẫu hệ') [16], đã lập luận rằng, trong các xã hội mà họ nghiên cứu, số lượng calo cần thiết để nuôi sống tất cả người lớn và trẻ em trong một nhóm sẽ đòi hỏi sự hợp tác của phụ nữ và những người họ hàng nữ của họ, đặc biệt là các bà, cùng với những người đàn ông. Ví dụ, trong số những người !Kung ở sa mạc Kalahari, các nghiên cứu cho thấy rằng "việc hái lượm đóng góp từ 60 đến 80 phần trăm trong khẩu phần dinh dưỡng".[17]Những phụ nữ không thể đi hái lượm, hoặc vì họ đang ở giai đoạn cuối của thai kỳ hoặc đang chăm sóc trẻ sơ sinh, được đảm bảo lượng calo hàng ngày vì những người phụ nữ khác sẽ cung cấp cho họ. Một lần nữa, điều này không phải do một tinh thần vị tha trừu tượng nào đó. Đây là thông lệ chuẩn mực: mọi người giúp đỡ lẫn nhau, bởi vì họ biết rằng họ cũng sẽ được giúp đỡ lại khi ở trong hoàn cảnh tương tự.Vì vậy, quan niệm cho rằng phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào đàn ông, và do đó ngay cả trong xã hội loài người sơ khai, phụ nữ phải tìm kiếm một người đàn ông để tồn tại, là không đúng.Tất cả những điều này cung cấp một cơ sở duy vật cho sự bình đẳng giữa các giới. Opie và Power cũng giải thích vai trò của những người phụ nữ lớn tuổi, những người không còn có thể sinh con, nhưng có thể đóng vai trò quan trọng sau này trong cuộc sống ở việc giúp đỡ chu cấp cho con cái của con gái họ. Điều này sẽ giải thích bản chất của gia đình theo chế độ mẫu hệ – phụ nữ ở gần mẹ của họ – và do đó cũng giải thích bản chất mẫu hệ của xã hội.Họ chỉ ra rằng"Bằng chứng từ di truyền học phân tử cho thấy khuynh hướng gắn bó với nhau từ xa xưa của những người phụ nữ vẫn tồn tại cùng với sự xuất hiện của con người hiện đại. Các nghiên cứu cho thấy xu hướng ái hương (philopatry) - việc một cá nhân quay trở lại, hoặc ở lại, quê hương, hoặc nơi sinh của mình giữa các quần thể săn bắn và làm nông ở Châu Phi cận Sahara là rất phổ biến."[18]Họ còn viết: “Những quần thể mà càng phụ thuộc vào việc săn bắn thì phụ nữ càng ít có khả năng đến ở gia đình nhà chồng”. Điều này có nghĩa là phụ nữ trong các xã hội săn bắn hái lượm có xu hướng sống trong một nhóm mà phụ nữ có quan hệ họ hàng, với mẹ, chị em gái, chị em họ nữ, nhưng những người đàn ông mà họ kết đôi từ bên ngoài. Tất cả những điều này là sự xác nhận đáng kinh ngạc về những gì Morgan đã mô tả vào năm 1877!Tất nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ đối với quy tắc này, chẳng hạn như người bản địa ở Bắc Alaska, trong số đó chúng ta thấy “đàn ông cung cấp phần lớn nguồn thức ăn”. Họ là thợ săn chứ không phải nông dân. Tuy nhiên, điều này không phải do thực tế là người dân ở đó chỉ đơn giản là “nghĩ” rằng săn bắn tốt hơn và “chọn” không áp dụng việc trồng trọt.Một bài viết khác giải thích rằng ở “một số vùng Bắc Cực và cận Bắc Cực, có tương đối ít động vật nhỏ và không có thực phẩm thực vật đủ dinh dưỡng, vì vậy, thịt được săn bắt của động vật lớn chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số thực phẩm tiêu thụ”.[19] Có một lý do duy vật cụ thể giải thích tại sao đàn ông lại đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong việc kiếm thức ăn trong tình huống như vậy: “Khả năng tập hợp quy mô lớn hoặc chuyển đổi sang chế độ nông nghiệp là không thể xảy ra ở những xã hội Bắc Cực hoặc cận Bắc Cực này”.[20]Việc tìm ra những “ngoại lệ” này không phủ nhận bức tranh toàn cảnh về sự tiến hóa xã hội, bởi nhìn chung các điều kiện thường thuận lợi cho sự phát triển của nông nghiệp. Như các tác giả giải thích:Để hiểu được quá trình chuyển đổi sang xã hội nông nghiệp, những nhóm này (người bản địa Alaska nêu trên) có lẽ không phải là một mô hình đại diện cho các xã hội săn bắn hái lượm đã tồn tại ở Châu Phi, Châu Âu và những nơi khác đã trải qua quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp."[21]Điều này rõ ràng có ý nghĩa to lớn đối với vị thế của phụ nữ trong những xã hội này. Những người phụ nữ thuở ấy không chuyển từ nhà cha mình sang nhà chồng (sau khi kết hôn) và ở lại đó, để rồi được bao quanh bởi gia đình mở rộng của nhà chồng, vốn là tình trạng rất phổ biến ngày nay trên khắp thế giới. Điều này có nghĩa là họ ít phụ thuộc hơn đáng kể vào bạn đời của mình. Trái lại, bạn đời của họ thấy mình được bao quanh bởi họ hàng của vợ, và ở một mức độ nào đó, phụ thuộc vào họ.Trong một số trường hợp, thợ săn nam phải đưa toàn bộ chiến lợi phẩm của mình cho mẹ của vợ để bà chia cho gia đình. Không có gì ngạc nhiên khi những ví dụ còn sót lại của những cộng đồng này lại có tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ thấp hơn nhiều so với chúng ta.Tư hữu tài sản, bất bình đẳng và chế độ một vợ một chồngLối sống quân bình này bắt đầu thay đổi sau khi nông nghiệp xuất hiện, trong thời kỳ được gọi là Cách mạng đồ đá mới, cách đây khoảng 12.000 năm.Các nghiên cứu đã xác nhận rằng bất bình đẳng giới đã dần thay đổi trong một thời gian dài, khi con người chuyển từ săn bắt hái lượm sang nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt. Bằng chứng khảo cổ học từ khắp nơi trên thế giới cho thấy sự phân công lao động giữa nam và nữ đã thay đổi sau khi chuyển sang nông nghiệp. Nguyên nhân trực tiếp thì tùy theo từng nơi, nhưng rõ ràng có một số yếu tố quan trọng đã đóng vai trò chính: tỷ lệ sinh tăng và do đó trách nhiệm chăm sóc trẻ em lớn hơn, nhu cầu chế biến thực phẩm lớn hơn và cuối cùng là việc sử dụng các công cụ sản xuất nặng hơn như cái cày.Một nghiên cứu do Mạng lưới nghiên cứu khoa học xã hội công bố năm 2012 đã giải thích:"[…] việc chuyển sang nông nghiệp đã dẫn đến sự phân công lao động trong gia đình, trong đó người đàn ông sử dụng sức mạnh thể chất của mình để sản xuất lương thực và người phụ nữ chăm sóc việc nuôi dạy con cái, chế biến và sản xuất lương thực cũng như các nhiệm vụ liên quan đến gia đình khác."Tiếp tục trong nghiên cứu này:"Hậu quả là của phụ nữ trong xã hội không còn khả năng duy trì sự độc lập về mặt kinh tế. Về bản chất, sự thay đổi chung trong phân công lao động gắn liền với Cách mạng đồ đá mới đã giảm thiểu các lựa chọn sinh kế khác của phụ nữ (ngoài việc đi tới kết hôn với một người đàn ông), và điều này làm tăng quyền mặc cả của nam giới trong gia đình, qua nhiều thế hệ, chuyển thành các chuẩn mực và hành vi định hình nên chuẩn mực văn hóa về vai trò giới trong xã hội. […] Tóm lại, chúng tôi cung cấp bằng chứng mới phù hợp với giả thuyết rằng thời kỳ đầu của cuộc Cách mạng đồ đá mới , thông qua các tác động của nó đối với chuẩn mực văn hóa, là nguồn gốc của các khuôn mẫu giới hiện đại."[22]Bên cạnh sự thay đổi trong phân công lao động, cũng có sự thay đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ, điều này sẽ tác động thêm đến vị thế của phụ nữ trong gia đình. Một bài báo năm 2004 từ Đại học La Sapienza ở Rome tiết lộ rằng một nghiên cứu về DNA ty thể trong 40 quần thể từ Châu Phi cận Sahara cho thấy "một sự khác biệt đáng kể trong cấu trúc di truyền của quần thể sản xuất lương thực (người nói tiếng Bantu và Sudan) và quần thể săn bắn hái lượm (người Pygmy, !Kung và Hadza)"[23]. Phụ nữ trong quần thể săn bắn hái lượm, chẳng hạn như !Kung và Hadza, có nhiều khả năng ở lại với mẹ sau khi kết hôn hơn so với phụ nữ từ quần thể sản xuất lương thực phụ thuộc vào nông nghiệp, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa nông nghiệp và chế độ phụ hệ.Tất nhiên, hầu như không thể xác định chính xác thời điểm dòng dõi mẫu hệ nhường chỗ cho chế độ phụ hệ. Sự thay đổi này sẽ diễn ra trong một giai đoạn xa xôi của quá khứ không được ghi chép, và mỗi xã hội riêng lẻ sẽ phát triển theo cách riêng và với tốc độ riêng của nó. Nhưng chắc chắn rằng sự chuyển đổi này đã diễn ra tại một thời điểm nào đó giữa sự ra đời của nông nghiệp và sự trỗi dậy của các xã hội giai cấp đầu tiên, khoảng 5-6.000 năm trước, bởi vì tất cả các xã hội này đều là xã hội phụ cư (patrilocal), phụ hệ (patrilineal) và trên hết là phụ quyền (patriarchal).Morgan đã xác định được rằng chìa khóa cho sự thay đổi đột ngột này nằm ở sự gia tăng của hình thái sở hữu tư, ông giải thích rằng:"[…] câu hỏi về thừa kế chắc chắn sẽ nảy sinh, và nó có thêm tầm quan trọng khi tài sản tăng lên về số lượng và chủng loại, và dẫn đến một số quy tắc thừa kế cần phải được quyết định."[24]Tài sản không tự nhiên mà biến thành tài sản tư nhân, vì ban đầu các quy tắc thừa kế thường dựa trên quyền sở hữu chung về đất đai và đàn gia súc trong thị tộc, nó bắt nguồn từ quá trình các đơn vị gia đình quy mô lớn hơn dần trở thành nền tảng của xã hội cho đến khi hình thành các quốc gia đầu tiên. Điều này có nghĩa là tài sản không thể được chuyển ra ngoài phạm vi thị tộc.Theo thị tộc mẫu hệ, con cái vẫn nằm trong thị tộc của mẹ. Do đó, tài sản được thừa kế thông qua dòng dõi nữ. Điều này có nghĩa là con cái của những người đàn ông không thuộc về thị tộc của người cha, mà nằm trong thị tộc của người mẹ. Tuy nhiên, tại một thời điểm nhất định, ở những nơi khác nhau trên thế giới và vào những thời điểm khác nhau, khi đàn ông tích lũy được ngày càng nhiều tài sản, một sự thay đổi đã diễn ra theo đó quyền sở hữu được truyền qua dòng dõi nam giới.Bất bình đẳng, giai cấp và sự áp bức phụ nữ không phát sinh ngay từ những hình thức đầu tiên của nền nông nghiệp và thuần hóa. Nhưng một khi quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp đã hoàn thành, các điều kiện để có được năng suất ngày càng cao hơn đã được xác lập. Như có thể thấy đối với một loạt các địa điểm khai quật Thời kỳ Đồ đá mới, "chủ nghĩa cộng sản trong đời sống" vẫn tiếp tục ngay cả khi con người chuyển từ cuộc sống du mục sang cuộc sống định cư. Tuy nhiên, thặng dư được tạo ra ngày càng nhiều hơn có nghĩa là việc các giai cấp bắt đầu xuất hiện chỉ còn là vấn đề thời gian, và cùng với sự xuất hiện của xã hội giai cấp là bất bình đẳng xã hội, nạn nhân đầu tiên của quá trình này là phụ nữ. Quá trình này đã hoàn tất trong giai đoạn của các xã hội nông nghiệp định cư ban đầu, đến sự xuất hiện của các nền văn minh sơ khai được biết đến trong lịch sử.Quá trình này đã được lặp lại độc lập ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Lưỡng Hà (nay là Iraq), Ai Cập, Trung và Nam Mỹ, Trung Quốc, Nam Á và một số vùng của Châu Phi cận Sahara. Các khu vực này phát triển không hoàn toàn giống nhau, nhưng chúng có nhiều đặc điểm chung.Chúng ta không thể nói chính xác quá trình chuyển đổi từ dòng dõi mẫu hệ sang dòng dõi phụ hệ diễn ra như thế nào. Tuy nhiên, Morgan đã phỏng vấn các thành viên của một số bộ lạc ở Bắc Mỹ và lưu ý rằng một số người trong số họ gần đây đã chuyển từ thừa kế qua dòng dõi nữ sang dòng dõi nam – trong một số trường hợp diễn ra ngay trong thời kỳ đó. Như ông nói:"Nhiều bộ lạc người da đỏ hiện có tài sản đáng kể về vật nuôi và nhà cửa và đất đai do các cá nhân sở hữu, trong số đó, việc truyền lại cho con cái của họ khi họ còn sống đã trở nên phổ biến để tránh việc thừa kế chung của toàn thị tộc."[25] (Đã thêm phần nhấn mạnh.)Ông giải thích rằng khi tài sản tăng lên về số lượng, con cái của những người đàn ông không được thừa kế bắt đầu "có bất đồng đối với quyền thừa kế theo thị tộc", tức là thông qua dòng dõi mẹ. Đây thực sự là một ví dụ sống động về cách thức chuyển đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ có thể diễn ra ở các xã hội khác.Do đó, sự xuất hiện của tài sản tư nhân là yếu tố chính quyết định sự thay đổi triệt để về địa vị của phụ nữ, từ ngang vai phải lứa trở thành thành vị thế thấp hơn đàn ông. Morgan đã viết rằng "Gia đình một vợ một chồng có nguồn gốc từ tài sản tư nhân"[26].Một hình thức xã hội mới đã xuất hiện, nơi những người đàn ông sở hữu tài sản bắt đầu áp đặt lên phụ nữ những điều kiện trước đây chưa từng có. Cách duy nhất để đảm bảo rằng người phụ nữ sinh con cho chồng là áp đặt các quy tắc ứng xử nghiêm ngặt, chẳng hạn như việc giam giữ phụ nữ trong nhà, cấm phụ nữ ra khỏi nhà mà không có người đi kèm và chung thủy tuyệt đối. Morgan phác thảo quá trình này như sau:"Sau khi số lượng tài sản như nhà cửa, đất đai, đàn gia súc và hàng hóa để trao đổi tăng trưởng vượt bậc và được sở hữu bởi cá nhân, vấn đề thừa kế tài sản sẽ là vấn đề đòi hỏi sự chú ý của con người […]".Morgan giải thích rằng gia đình cuối cùng đã trở thành "một thể chế tạo ra tài sản", và ông nói thêm:"Rồi sẽ đến lúc chế độ một vợ một chồng, sau khi đảm bảo con cái là của người cha, sẽ khẳng định và duy trì quyền thừa kế độc quyền của người con đối với tài sản của người cha đã khuất."[27]Morgan, như chúng ta đã thấy, không giới hạn bản thân trong việc quan sát người Iroquois, hoặc dữ liệu mà ông nhận được từ các học giả và lữ khách. Ông cũng xem xét các nguồn khác, ví dụ, về người Hy Lạp và La Mã cổ đại, và những kiến thức nào có thể trích xuất được từ những ghi chép sơ khai của họ, từ các huyền thoại và truyền thuyết, về cấu trúc gia đình trước đó của họ.Ông tìm thấy dấu vết của thị tộc trong các văn bản và huyền thoại rất sớm của người La Mã và Hy Lạp cổ đại, cũng như trong "sept" của người Ireland, "clan" của người Scotland, "ganas" của người Phạn, v.v. Điều này rất có ý nghĩa, vì các nền văn hóa này không bao giờ có thể có bất kỳ sự tiếp xúc nào với các bộ lạc người Mỹ bản địa mà Morgan đã quan sát.Người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã áp dụng thị tộc dựa trên nam giới, vốn được chuyển đổi từ thị tộc dựa trên nữ giới trước đó, và ông mô tả cách thức mà điều này tiếp tục diễn ra trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành các thành bang.Trong xã hội Hy Lạp cổ đại, chúng ta thấy sự xuống thế của phụ nữ ở một trong những hình thức tồi tệ nhất của nó. Vì sợ rằng bất kỳ sự tiếp xúc nào với những người đàn ông khác có thể dẫn đến quan hệ tình dục, đàn ông Athens không cho phép vợ mình xuất hiện ở nơi công cộng và đàn ông ngoài gia đình không được phép ở bên những người phụ nữ trong gia đình. Ở Rome cổ đại, bô lão gia đình (paterfamilias - người đàn ông lớn tuổi nhất trong nhà) là người có thẩm quyền tối cao, có quyền sinh sát đối với tất cả các thành viên trong gia đình, vợ, con cái cũng như nô lệ.Cần lưu ý rằng "chế độ một vợ một chồng" này thực chất chỉ dành cho phụ nữ. Và cùng với hệ thống đạo đức mới, hạn chế này đã dẫn tới sự xuất hiện nhiều hình thức mại dâm nữ (và trong một số trường hợp là mại dâm nam) khác nhau trong các xã hội có giai cấp cổ đại. Nhà nước Athens thậm chí còn luật hóa mại dâm, với sự ra đời của các nhà thổ.Trước khi các xã hội giai cấp này xuất hiện, phụ nữ đã được tôn kính và vinh danh là người ban tặng sự sống. Các sử thi Hy Lạp đề cập đến các nữ thần và nữ chiến binh, được nâng lên vị trí được tôn thờ và tôn trọng. Robert Graves trong tác phẩm "The Greek Myths" (Tạm dịch 'Thần Thoại Hy Lạp') (1955) đã bày tỏ quan điểm rằng Hy Lạp thời đại Đồ Đồng đã chuyển đổi từ một xã hội "mẫu quyền" - chúng ta sẽ dùng từ "mẫu hệ" - sang một xã hội gia trưởng. Ông đề cập đến câu chuyện Zeus nuốt Metis, Nữ thần Trí tuệ, sau đó "người Achaean (người Hy Lạp) đã đàn áp giáo phái của bà và gán việc tôn sùng mọi trí tuệ cho Zeus, vị thần gia trưởng của họ".[28]Sự hạ bệ phụ nữ ở trên thiên đàng rõ ràng cũng phản chiếu của sự hạ bệ của nữ giới trên trái đất. William G. Dever đã lập luận trong cuốn sách của mình, "Did God have a Wife?" (tạm dịch 'Chúa có vợ không?'), rằng một quá trình tương tự đã diễn ra trong thần thoại của người Do Thái cổ đại, những người mà ở thời kỳ đầu tin rằng Yahweh (vị thần của họ) có vợ, được coi là Nữ hoàng của Thiên đàng.[29]Morgan và Engels bàn về tương lai của gia đìnhNhững gì Morgan bàn về sự phát triển trong quá khứ của gia đình đã thách thức các quan điểm truyền thống, nhưng những gì ông nói về tương lai của gia đình còn khiến giai cấp tư sản sốt vó hơn nữa:"Khi thực tế rằng (trước đó) gia đình đã trải qua bốn hình thái kế tiếp nhau và hiện đang ở hình thái thứ năm, thì ta ngay phải lập tức đặt câu hỏi liệu hình thái này có thể tồn tại vĩnh viễn trong tương lai hay không. Câu trả lời duy nhất có thể đưa ra là: hình thái gia đình phải phát triển cùng với sự tiến hóa của xã hội, và thay đổi khi xã hội thay đổi, cũng như điều đã xảy ra trong quá khứ."[30]Engels đi xa hơn thế:"[…] những gì chúng ta có thể suy đoán ở thời điểm hiện tại về sự sự thay đổi trong các mối quan hệ tính dục sau khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sắp bị xóa bỏ chủ yếu mang tính phủ định và mới chỉ giới hạn trong hình dung về những gì sẽ biến mất. Nhưng điều gì mới sẽ được hình thành? Điều đó sẽ chỉ được quyết định sau khi một thế hệ mới trưởng thành: một thế hệ gồm những người đàn ông chưa bao giờ trong suốt cuộc đời họ phải mua chuộc sự nhượng bộ của phụ nữ bằng tiền bạc hay bất kỳ phương tiện quyền lực xã hội nào khác, và những người phụ nữ chưa bao giờ bị buộc phải nhượng bộ bất kỳ người đàn ông nào vì bất kỳ lý do nào khác ngoài tình yêu đích thực, hoặc phải kìm nén bản thân trước người mình yêu vì sợ hậu quả kinh tế. Khi những con người như vậy xuất hiện, họ sẽ chẳng thèm bận tâm đến những gì chúng ta ngày nay nghĩ rằng họ nên làm. Họ sẽ thiết lập những thực hành và dư luận của riêng chính họ (ý là xây dựng một xã hội mới, với các tiêu chuẩn mới phù hợp với quan hệ sản xuất mới - ND), phù hợp với thực tiễn của từng cá nhân – và thế là hết chuyện."[31]Engels thường bị chỉ trích như một người thuộc thời đại Victoria, nhưng chỉ trong vài câu này, chúng ta thấy rằng ông thực chất đã đi trước thời đại rất xa về vấn đề gia đình và cách các mối liên hệ tính dục sẽ phát triển trong tương lai.Sau khi Engels cho ra đời tác phẩm kinh điển của mình, hàng ngũ của Quốc tế thứ Hai, và sau đó là Quốc tế Cộng sản, đã được giáo dục về những tư tưởng mà ông phát triển liên quan đến vấn đề này. Khi những người Bolshevik lên nắm quyền vào năm 1917, họ bắt đầu thực hiện những ý tưởng đó, điều này thể hiện qua các đạo luật và cải cách khác nhau liên quan đến hôn nhân, quyền của phụ nữ, chăm sóc trẻ em, v.vCùng với các cải cách chính trị, Lenin và Trotsky đều nhấn mạnh sự cần thiết của bình đẳng thực sự, cả về mặt xã hội lẫn chính trị, bằng cách giải phóng phụ nữ khỏi gánh nặng của công việc nội trợ, chăm sóc con cái, v.v., những gánh nặng vẫn còn đè nặng lên phụ nữ cho đến ngày nay.Việc cuộc cách mạng bị cô lập trong một quốc gia lạc hậu đồng nghĩa với việc nhiều cải cách tiến bộ đó chỉ có thể được thực hiện một phần, vì Liên Xô không có đủ nguồn lực vật chất để duy trì chúng. Tuy nhiên, những cải cách táo bạo này đã cho chúng ta thấy một cái nhìn thoáng qua về những gì mà một thế giới xã hội chủ nghĩa thực sự có thể đạt được. Chính vì lý do này mà giai cấp thống trị không thể nào buông tha cho ý tưởng của những người Bolshevik và ngay cả Morgan.Phản ứng của giai cấp tư sản với lý thuyết của Morgan và EngelsĐiều đáng chú ý ở đây là sự đối xử rất khác nhau đối với Darwin và Morgan. Darwin cũng không hoàn toàn hiểu được cách thức tiến hóa diễn ra, vì vào thời điểm đó, một số khám phá khoa học, chẳng hạn như di truyền học, vẫn chưa được chứng nhận. Tuy nhiên, điều này không làm giảm bớt vai trò lịch sử của ông trong việc thúc đẩy mạnh mẽ sự hiểu biết của chúng ta về quá trình tiến hóa của sự sống.Morgan lại bị đối xử khác hẳn. Giai cấp tư sản có thể chấp nhận ý tưởng về tiến hóa sinh học, thậm chí còn cố gắng bóp méo nó để biện minh cho chính xã hội tư bản. Nhưng họ không thể chấp nhận một ý tưởng dẫn đến kết luận rằng bản thân chủ nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn tạm thời và tất yếu sẽ đi đến hồi kết.Mặc dù Morgan không phải là kẻ thù của chủ nghĩa tư bản, nhưng những phát hiện của ông, khi được Engels tiếp thu, lại chỉ theo một hướng: Cũng như xã hội của quá khứ đã bị khuất phục trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì sự phát triển tiếp theo của những lực lượng này đang tạo điều kiện cho sự diệt vong của chính chủ nghĩa tư bản, và cùng với nó là sự biến đổi của hình thái gia đình – vốn đã tồn tại hàng ngàn năm dưới nhiều hình thái khác nhau trong các xã hội có giai cấp. Do đó, tư tưởng của Morgan phải bị hạ thấp và bôi nhọ, vì làm suy yếu quan điểm của ông cũng đồng nghĩa với việc làm suy yếu Engels và quan điểm của những người Marxist, những người bị coi là đang truyền bá các ý tưởng nguy hiểm đe dọa sự ổn định của xã hội tư sản.Tất nhiên, cần phải có thái độ khách quan khi xem xét Morgan và ngành nhân học trong thời kỳ của ông. Chẳng hạn, ông không hiểu được mức độ phát triển mà các nền văn hóa bản địa Nam Mỹ (Amerindian) tiên tiến hơn, ví dụ như người Aztec, đã đạt được. Ông cho rằng họ ở cùng trình độ với người Iroquois. Ngay cả khi một trong những học trò của ông chỉ ra sai lầm này, ông vẫn kiên trì giữ quan điểm đó.Tuy nhiên, điều rõ ràng là Morgan đã hoàn toàn phá vỡ quan điểm hẹp hòi của những người tiền nhiệm – và thậm chí là những người đương thời của ông – và một cách vô thức đã áp dụng phương pháp duy vật lịch sử để hiểu về sự phát triển ban đầu của loài người. Ông đã đóng góp một phần lớn vào việc làm sáng tỏ sự phát triển của xã hội loài người và điều đó đáng được công nhận.Chúng ta phải hiểu một cách rõ ràng rằng, những người tấn công Morgan hoặc Engels không làm điều đó với mong muốn làm sắc bén thêm sự hiểu biết của chúng ta dựa trên những nghiên cứu cập nhật hơn – điều mà chính Engels sẽ luôn sẵn sàng tiếp nhận. Không, họ tấn công và cố gắng làm mất uy tín phương pháp khoa học của ông, phương pháp duy vật biện chứng, như một phần trong cuộc tấn công rộng lớn và tổng quát hơn vào chủ nghĩa Marx.Đến giữa thế kỷ 19 – thời kỳ chủ nghĩa tư bản hãy đang còn phát triển – các nhà kinh tế học tư sản, sử gia, nhà cổ sinh vật học và nhân chủng học đầu tiên vẫn đang tìm kiếm một cách thành tâm và vô tư để phát hiện ra các cơ chế quyết định sự phát triển của xã hội. Adam Smith, ví dụ, đã vật lộn với các cơ chế xác định cách thức hoạt động của chủ nghĩa tư bản. Nhưng chính Marx mới là người rút ra tất cả các kết luận hợp lý từ đó.Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 20, khi chủ nghĩa tư bản đạt đến giới hạn của nó và bắt đầu trì trệ, rơi vào khủng hoảng, giai cấp tư sản đã không còn đóng bất kì vai trò tiến bộ thực sự nào, và điều này cũng ảnh hưởng đến cách tiếp cận của họ đối với những nghiên cứu như vậy.Giai cấp tư sản lúc này đã trở thành một lực lượng phản động hoàn toàn và đang tìm kiếm những ý tưởng để biện minh cho sự tồn tại dai dẳng của mình. Lý do thì rõ ràng: sự giàu có và đặc quyền của họ phụ thuộc vào việc duy trì hệ thống hiện tại, vì vậy họ tìm cách chứng minh rằng hệ thống này sẽ không bao giờ kết thúc.Nhà nhân học nổi tiếng Bronisław Malinowski là một hạt nhân xung kích quan trọng trong cuộc tấn công này của giai cấp tư sản nhắm vào các lý thuyết của Morgan. “Gia đình cá nhân luôn tồn tại, và... hôn nhân giữa các cặp đôi luôn là trung tâm”[32], ông tuyên bố vào năm 1931.Malinowski đang phản ứng lại với ý tưởng rằng gia đình đã tiến hóa theo thời gian, trải qua các hình thái khác nhau. Quan điểm của ông là phân tích lịch sử về các hình thức gia đình trước đó thiếu bằng chứng, và gia đình luôn luôn, là và sẽ luôn là gia đình hạt nhân. Như đã trích dẫn ở trên, ông tin rằng “gia đình cá nhân” (với người đàn ông đứng đầu) là “yếu tố trọng yếu trong xã hội của chúng ta”, và việc loại bỏ nó sẽ là một “thảm họa xã hội”.Ở đây chúng ta thấy cách mà nhiều nhà nhân học, khi cố gắng hiểu các xã hội trước đây, đã nhìn nhận chúng qua lăng kính của xã hội mà họ được sinh ra. Trong khoa học, có thể có một điều gọi là thành kiến xã hội. Khoa học không phải là một “diễn đàn” trung lập cho các ý tưởng; nó là một chiến trường phản ánh tất cả các áp lực của xã hội có giai cấp.Nhân học, vì là một ngành nghiên cứu về xã hội loài người, là một trong những khoa học dễ bị ảnh hưởng bởi thành kiến xã hội nhất. Những niềm tin tôn giáo, truyền thống, đạo đức và thành kiến giai cấp có thể đóng vai trò trong việc khiến các nhà nhân học không nhìn ra được những gì thực sự trước mắt họ, đặc biệt là khi nói đến các chuẩn mực tình dục, nhưng cũng liên quan đến vấn đề sở hữu tài sản.Từ đầu thế kỷ 20, nhân học đã chứng kiến sự phản kháng ngày càng gia tăng đối với những ý tưởng của Morgan. Marvin Harris trong The Rise of Anthropological Theory (1968) giải thích rằng ngành nhân học hiện đại của thế kỷ 20 có nhiệm vụ “phơi bày kế hoạch của Morgan và phá hủy nền tảng phương pháp luận của nó”[33] (nhấn mạnh thêm).Phương pháp mà họ muốn phá hủy là gì? Harris giải thích rằng: “Các nhà nhân học thế kỷ 19 tin rằng các hiện tượng xã hội - văn hóa được chi phối bởi các nguyên lý có tính quy luật có thể khám phá được.” Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, “người ta bắt đầu tin rằng nhân học không thể bao giờ khám phá nguồn gốc của các thể chế hoặc giải thích nguyên nhân của chúng.”[34]Điều này là sự bác bỏ phương pháp nghiên cứu khoa học và duy vật trong các nghiên cứu nhân học, và một sự chuyển hướng sang phương pháp ngụy khoa học và duy tâm. Điều này dẫn đến một tình huống mà:“Dựa trên những bằng chứng dân tộc học kém toàn diện, vốn sai hoặc bị diễn giải sai, đã làm xuất hiện một quan điểm về văn hóa phóng đại tất cả các yếu tố phi lý, phi lý tưởng và không thể giải thích trong cuộc sống con người. Thích thú với sự đa dạng của các mô hình, các nhà nhân học tìm kiếm những sự kiện khác biệt và không thể so sánh. Họ nhấn mạnh ý nghĩa chủ quan bên trong của kinh nghiệm mà bỏ qua các hiệu quả và mối quan hệ khách quan. Họ phủ nhận định mệnh lịch sử nói chung, và trên hết, họ phủ nhận định mệnh của các điều kiện vật chất của cuộc sống.”[35]Phương pháp duy tâm này đã bác bỏ phương pháp duy vật, tiến hóa, và theo đó là bác bỏ cả ý tưởng rằng người ta có thể xây dựng một hiểu biết toàn diện và dài hạn về sự phát triển của xã hội; bác bỏ ý tưởng rằng có thể tìm ra các quy luật phát triển của xã hội, và thay vào đó khẳng định rằng mỗi nền văn hóa nên được xem xét một cách độc lập và duy nhất và không có một trật tự phát triển cụ thể. Franz Boas (1858-1942) là người tiên phong của xu hướng này, với lý thuyết “lịch sử cụ thể” (historical particularism) của ông.Điều này thực tế là mở màn của luồng tư tưởng hậu hiện đại về say nàt, khi mà một số người theo chủ nghĩa tả khuynh thất vọng, thậm chí là những “Marxist,” đã chuyển hướng khỏi một cái nhìn khoa học, duy vật, hướng tới việc phủ nhận không chỉ các quy luật phát triển mà còn cả bản thân sự phát triển.Có những nhà nhân học đã chống lại xu hướng này, chẳng hạn như Leslie A. White và Marvin Harris, những nhà khoa học với phương pháp riêng của họ, đã phản đối sự chuyển hướng sang chủ nghĩa duy tâm và duy trì một phương pháp duy vật. Nhưng như Harris đã nhận xét vào năm 1999 trong Theories of Culture in Postmodern Times: “Tôi phải thú nhận rằng sự chuyển hướng của lý thuyết – từ các phương pháp quy trình, hướng đến khoa học và sang một loại chủ nghĩa hậu hiện đại ‘thế nào cũng được’ – đã có ảnh hưởng lớn hơn tôi nghĩ khi tôi nhìn về tương lai từ cuối những năm 1960.”[36] Sự chuyển hướng này không phải là ngẫu nhiên.Với các phương pháp Boasian và sau này là các phương pháp hậu hiện đại, những gì còn lại chỉ là một mớ các nghiên cứu trường hợp cá biệt, những sự kiện đơn lẻ không có mối liên hệ với nhau, không có nỗ lực nào để thiết lập mối quan hệ nguyên nhân – kết quả, với kết luận cuối cùng rằng thực tại là điều không thể biết được.Một trong những chỉ trích mà trường phái Boas đưa ra đối với Morgan, và với tất cả các nhà tiến hóa xã hội của thời kỳ đó, là họ có một quan điểm cứng nhắc về cách mà các nền văn hóa loài người phát triển, áp dụng một mô hình mà trong đó đó tất cả các nền văn hóa địa phương bị ép buộc phải tiến hóa theo.Sự thật đúng là các xã hội loài người không phải lúc nào cũng tiến hóa theo cùng một cách, theo từng giai đoạn trong một kế hoạch tiền định. Liệu chúng ta có thể phủ nhận sự khác biệt trong tốc độ và định hướng phát triển của các nền văn hóa khác nhau trong điều kiện địa lý và khí hậu khác nhau không? Điều này sẽ thật vô lý và phi khoa học. Ví dụ, đã có trường hợp các nền văn hóa đã bắt đầu với các hình thức nông nghiệp sơ khai, sau đó quay lại với săn bắn. Tại sao lại có chuyện đó? Bởi vì trong những điều kiện cụ thể, nông nghiệp lại ít hiệu quả hơn, hoặc sự thay đổi khí hậu buộc các nhóm người này phải quay lại lối sống du mục. Có một lý do cụ thể, vật chất cho sự chuyển hướng trở lại những hình thức sinh kế mà người ta có thể cho là kém phát triển hơn.Nếu áp dụng điều này vào gia đình, chúng ta thấy rằng, mặc dù đã áp dụng trồng trọt và chăn nuôi, một số nơi trong Thời kỳ Đồ đá mới vẫn cho thấy sự bình đẳng giữa các giới, thậm chí trong những thời kỳ rất dài. Và mặt khác, chúng ta cũng có thể gặp những xã hội săn bắn hái lượm, nơi sự áp bức phụ nữ đã bắt đầu gặp phải những ảnh hưởng của các hình thức xã hội sau này, đặc biệt khi gần nơi có sự tiếp xúc với nông dân – một ví dụ rõ ràng về quy luật phát triển không đồng đều và kết hợp.Tuy nhiên, điều này không phủ định sự thật rằng có những quy luật có thể nhận diện được sự tiến hóa và các giai đoạn phát triển của xã hội. Quan trọng là quá trình chung đã có xu hướng đi theo một hướng nhất định, và vì lý do vật chất, chúng ta có thể hiểu được điều đó. Không có một xã hội có giai cấp nào từng đạt được mức độ bình đẳng như được quan sát trong một loạt các xã hội săn bắn hái lượm, từ quá khứ đến hiện tại.Một cái nhìn khách quan về sự phát triển của xã hội, dựa trên quan sát các sự kiện thực tế, cho thấy rằng đúng, sự tiến hóa xã hội đã đi theo những con đường hơi khác nhau tùy thuộc vào điều kiện địa phương. Nhưng thừa nhận điều này là một chuyện, và rút ra kết luận từ đó rằng không có quy luật phát triển xã hội nào có thể nhận biết được lại là một chuyện hoàn toàn khác.Boas không phải là nhà nhân học duy nhất chấp niệm cái nhìn như vậy. Sau ông, nhiều người khác cũng đã áp dụng một phương pháp duy tâm tương tự. Điều chúng ta có thể nói là phương pháp của họ, bất kể ý định ra sao, lại hoàn toàn phù hợp với giai cấp tư sản ngày nay. Thay vì sử dụng ngôn ngữ phản động công khai như Malinowski, họ có thể ẩn mình dưới một triết lý tự nhận mình là tiến bộ, trong khi thực tế lại mang bản chất phản động sâu sắc.Sự cần thiết của việc hiểu biết lý thuyếtĐể kết luận, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao tất cả những điều này lại quan trọng? Tại sao chúng ta lại bảo vệ những ý tưởng cốt lõi do Morgan và Engels xây dựng, về sự tiến hóa xã hội và cùng với đó là ý tưởng rằng gia đình đã tiến hóa? Câu trả lời cho câu hỏi đó là cần phải có sự hiểu biết về mặt lý thuyết trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức.Cuộc tranh luận này không chỉ đơn thuần mang tính học thuật. Xung đột giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong mọi lĩnh vực của cuộc sống là xung đột giữa sự tiến bộ và sự phản động. Trên thực tế, nó là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp.Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm phản duy vật và duy tâm đã thống trị ngành nhân học vào thế kỷ 20 - và vẫn tiếp tục như vậy cho đến ngày nay - thì chúng ta sẽ không còn hiểu biết thực sự về cách thức và lý do tại sao xã hội thay đổi, cách thức và lý do tại sao gia đình thay đổi (trong quá khứ), và do đó cách thức và lý do tại sao nó có thể thay đổi một lần nữa trong tương lai. Chúng ta sẽ chỉ vin vào ý tưởng rằng chính tâm trí của các cá nhân quyết định những thay đổi, chứ không phải những điều kiện thay đổi quyết định những thay đổi trong tư duy (theo phương pháp duy tâm).Việc chuyển hướng khỏi quan điểm duy vật và tiến hóa trong nhân học là một bước thụt lùi, vì nó không để chỗ cho sự hiểu biết khoa học thực sự về cách xã hội loài người tiến hóa từ những giai đoạn đầu, qua nhiều hình thái khác nhau cho đến xã hội công nghiệp ngày nay.Tư duy kiểu đó khiến chúng ta nghĩ rằng không có ích gì khi đấu tranh để thay đổi triệt để cấu trúc xã hội. Mà theo đó, chúng khuyên ta nên thay đổi những cá nhân tạo nên xã hội. Điều này làm thui chột ý chí thay đổi các điều kiện vật chất trong xã hội hiện tồn. Đây cũng có thể dẫn tới một kết luận rằng, khi trường hợp đấu tranh cho quyền của phụ nữ - và các tầng lớp bị áp bức khác trong xã hội - thì đấu tranh giai cấp không có vai trò gì. Mọi thứ trở thành cuộc chiến ngôn từ và định nghĩa. Trên con đường này, phong trào sẽ đi vào ngõ cụt.Điều cần thiết là quay trở lại với ý tưởng rằng có một hướng đi cho sự phát triển của xã hội, rằng các giai đoạn phát triển khác nhau đã đưa chúng ta đến nơi chúng ta đang đứng ngày hôm nay, và rằng giai đoạn hiện tại, giai đoạn của xã hội tư bản, chỉ đơn thuần là chuẩn bị nền tảng cho một giai đoạn cao hơn, giai đoạn của chủ nghĩa xã hội, và cần phải đấu tranh cho điều đó.Tương lai của gia đìnhĐối với những người phủ nhận rằng gia đình đã phát triển qua nhiều hình thức khác nhau, chúng ta có thể chỉ ra thực tế rằng, bất chấp những mong muốn tha thiết của những nhân vật như Malinowski, thì rõ ràng là gia đình đã trải qua nhiều thay đổi ngay cả trong khoảng thời gian tương đối ngắn ngủi kể từ thời của Morgan và Engels.Chúng ta đã chứng kiến điều đó trong ký ức sống động. Gần 50 phần trăm tất cả các cuộc hôn nhân ở Hoa Kỳ ngày nay kết thúc bằng ly hôn hoặc ly thân, trong khi con số này ở Vương quốc Anh là khoảng 42 phần trăm. Các ước tính gần đây cũng cho thấy rằng khoảng 40 phần trăm ca sinh nở ở Hoa Kỳ xảy ra ngoài hôn nhân.[37]Ở nhiều quốc gia trên thế giới, hôn nhân đang trở nên ít phổ biến hơn, mọi người kết hôn muộn hơn và có sự 'tách rời' giữa vai trò làm cha mẹ và hôn nhân. Như một bài báo đã viết, "Trong những thập kỷ qua, thể chế hôn nhân đã thay đổi nhiều hơn so với hàng nghìn năm trước."[38]Những thay đổi này diễn ra do một số yếu tố, trong đó quan trọng nhất là sự tham gia mạnh mẽ của phụ nữ vào thị trường lao động, mang lại cho phụ nữ sự độc lập cao hơn trước.Tuy nhiên, vẫn còn khoảng cách lương đáng kể giữa hai giới. Bất chấp những tiến bộ đã đạt được, đặc biệt là kể từ những năm 1970, phần lớn phụ nữ vẫn chưa hoàn toàn độc lập về kinh tế do bất bình đẳng dai dẳng, nghèo đói và cắt giảm kinh tế công. Nhưng sự thật vẫn là phụ nữ không còn phụ thuộc vào đàn ông như trước đây nữa - ít nhất là ở các nước công nghiệp tiên tiến - và với sự gia tăng độc lập về tài chính này, phụ nữ có nhu cầu lớn hơn về bình đẳng trong luật pháp và trong các điều kiện xã hội.Do đó, chúng ta có thể đặt ra một câu hỏi nữa: Nếu trong 70 năm qua, tất cả những thay đổi được mô tả ở trên đều diễn ra trong gia đình, tại sao những thay đổi lớn hơn nữa lại không thể diễn ra trong hàng chục nghìn năm và tại sao nó không thể thay đổi theo hướng tiến bộ trong tương lai?Dù vậy, rõ ràng là sự áp bức phụ nữ sẽ không thể biến mất một cách hòa bình dưới chủ nghĩa tư bản. Ngoài những rào cản vật chất mà phụ nữ phải đối mặt, hàng nghìn năm thống trị của xã hội giai cấp, văn hóa và hệ tư tưởng kỳ thị phụ nữ vẫn ảnh hưởng, ở một mức độ nào đó, tới những quan điểm của hàng tỷ người ngày nay. Định kiến và đạo đức dựa trên giai cấp đã tích tụ lại với nhau và vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ dưới chủ nghĩa tư bản.Người ta thường nhầm lẫn khi nói rằng chủ nghĩa tư bản là gốc rễ của sự áp bức phụ nữ. Điều đó đã đơn giản hóa vấn đề một cách quá mức. Như chúng ta đã thấy, sự thống trị của nam giới đối với phụ nữ đã xuất hiện từ hàng nghìn năm trước khi những hình thức xã hội giai cấp đầu tiên xuất hiện. Tuy nhiên, sự thật là văn hóa kỳ thị phụ nữ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ dưới chủ nghĩa tư bản và được giai cấp thống trị tích cực sử dụng khi vị thế của họ bị đe dọa, như chúng ta thấy ngày nay.Bất cứ điều gì có thể được sử dụng để chia rẽ giai cấp công nhân đều hữu ích đối với giai cấp tư bản. Sự phân biệt chủng tộc, kỳ thị người đồng tính, kỳ thị người chuyển giới, chia rẽ tôn giáo và sắc tộc, tất cả đều được coi là những công cụ hữu ích để chống lại một nhóm công nhân khác. Đây là lý do quan trọng tại sao gia đình hạt nhân vẫn được coi là một trong những “nền tảng của nền văn minh” và sẽ luôn được coi là như vậy dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.Sự giải phóng cuối cùng và thực sự của phụ nữ chỉ có thể đạt được khi xã hội có giai cấp bị xóa bỏ một lần và mãi mãi. Như Marx và Engels đã nói, “cách mạng là động lực của lịch sử”.[39] Nhiệm vụ của chúng ta ngày nay là đấu tranh để lật đổ hệ thống tư bản áp bức hiện tại, vốn đã tồn tại lâu hơn vai trò lịch sử của nó.Khi tất cả những mâu thuẫn phát sinh từ xã hội này bị xóa bỏ, và khi các lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi những ràng buộc của động cơ lợi nhuận, và được đặt dưới sự kiểm soát của những người tạo ra của cải - giai cấp công nhân - thì các điều kiện vật chất sẽ thay đổi hoàn toàn, và với sự thay đổi hoàn toàn này, các thế hệ tương lai sẽ là những người quyết định cách họ muốn liên hệ với nhau. Mối quan hệ giữa con người cuối cùng sẽ được giải thoát khỏi sự thiếu thốn vật chất và khỏi đạo đức méo mó do xã hội giai cấp áp đặt.Tài liệu tham khảo[1] L H Morgan, Ancient Society, Bharati, 1947, pg 498[2] M F A Montagu (ed.), Marriage, Past and Present – A Debate Between Robert Briffault and Bronislaw Malinowski, Extending Horizons, 1956, pg 76[3] L H Morgan, Ancient Society, Bharati, 1947, pg 19[4] F Engels, The Origin of the Family, Private Property and the State, Wellred Books, 2020, pg xxvii[5] L Krader (ed.), The Ethnological Notebooks of Karl Marx, Van Gorcum & Comp. B.V., 1974[6] E Trinkaus, “An abundance of developmental anomalies and abnormalities in Pleistocene people” in PNAS, Vol. 115, No. 47, 2018[7] “Prehistoric humans are likely to have formed mating networks to avoid inbreeding”, University of Cambridge, 5 October 2017[8] F Engels, The Origin of the Family, Private Property and the State, Wellred Books, 2020, pg 16[9] L H Morgan, Ancient Society, Bharati, 1947, pg 28[10] ibid.[11] F Engels, The Origin of the Family, Private Property and the State, Wellred Books, 2020, pg 78[12] C Renfrew, Prehistory – The making of the Human Mind, Modern Library, 2007, pg 135[13] L H Morgan, Ancient Society, Bharati, 1947, pg 66, 69[14] L A White, The Evolution of Culture, The Development of Civilization to the Fall of Rome, McGraw-Hill, 1959, pg 256[15] See H Devlin, “Early men and women were equal, say scientists”, The Guardian, 14 May 2015[16] K Opie, C Power, “Grandmothering and Female Coalitions: A Basis for Matrilineal Priority?” in Early Human Kinship, From Sex to Social Reproduction, Wiley, 2008, pg 168-186[17] C W Hansen et al., “Modern Gender Roles and Agricultural History: The Neolithic Inheritance” in Journal of Economic Growth, Vol. 20, 2015, pg 7-8[18] K Opie, C Power, “Grandmothering and Female Coalitions: A Basis for Matrilineal Priority?” in Early Human Kinship, From Sex to Social Reproduction, Wiley, 2008, pg 185[19] S L Kuhn, M C Stiner, “What’s a Mother To Do? The Division of Labor among Neandertals and Modern Humans in Eurasia” in Current Anthropology, Vol. 46, No. 6, 2006, pg 995[20] C W Hansen et al., “Modern Gender Roles and Agricultural History: The Neolithic Inheritance” in Journal of Economic Growth, Vol. 20, 2015, pg 9[21] ibid.[22] ibid. pg 3-5[23] G Destro-Bisol et al., “Variation of Female and Male Lineages in Sub-Saharan Populations: the Importance of Sociocultural Factors” in Molecular Biology and Evolution, Vol. 21, No. 9, 2004, pg 1673[24] L H Morgan, Ancient Society, Bharati, 1947, pg 74[25] ibid., pg 168[26] ibid., pg 398[27] ibid., pg 554[28] R Graves, The Greek Myths, Penguin Books, 1972, pg 20[29] William G. Dever’s Did God have a Wife?, 2005[30] L H Morgan, Ancient Society, Bharati, 1947, pg 449[31] F Engels, The Origin of the Family, Private Property and the State, Wellred Books, 2020, pg 63[32] M F A Montagu (ed.), Marriage, Past and Present – A Debate Between Robert Briffault and Bronislaw Malinowski, Extending Horizons, 1956, pg 41[33] M Harris, The Rise of Anthropological Theory, Thomas Y Cromwell, 1968, pg 249[34] ibid., pg 1[35] ibid., pg 2[36] M Harris, Theories of Culture in Postmodern Times, Altamira, 1999, pg 13[37] E Wildsmith et al., “Dramatic increase in the proportion of births outside of marriage in the United States from 1990 to 2016”, Child Trends, 8 August 2018[38] E Ortiz-Ospina, M Roser, “Marriages and Divorces”, Our World in Data, 2020[39] K Marx, F Engels, The German Ideology, Prometheus Books, 1998, pg 61